วันพฤหัสบดีที่ 11 ธันวาคม พ.ศ. 2551

No173: Đỉnh cao chói lọi(8)

(tiep)

Au Zénith - Dương Thu Hương - 229


Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn ba vừa nói được hai tiếng đã dừng lại uống nước. Mọi người tuy sốt ruột

cũng phải nén bụng chờ vì ông nổi tiếng là chậm rãi, đủng đỉnh và ít lời. Cậu trợ lý của ông kể rằng có lần hai

người đi công tác lẻ. Bốn ngày liên tục đi đường rừng mà ông không cậy răng nửa câu, ngoài những mệnh lệnh

cụt lủn, kiểu như : ― Chúng ta nghỉ, ăn cơm‖, hoặc :‖ Đi thôi, đến giờ rồi‖...Hơn nữa, vẻ mặt ông lầm lì, kín

như bưng khiến lính không dám gợi chuyện, kể cả những anh nổi tiếng bẻm mép. Thành ra, cậu nào bị phân

công đi thị sát chiến trường hoặc làm công việc gì đó đột xuất với ông cũng tự coi như chịu kỉ luật : Tù mồm.

Giờ cũng vậy. Mặc kệ mọi cặp mắt đang dán vào mình, ông cứ đủng đỉnh nhắp từng ngụm cho hết chén

trà rồi cẩn thận đặt xuống khay nước. Xong đó, ông khề khà hắng giọng rồi mới nói tiếp :

- Tôi nghĩ rằng chúng ta bỏ quên một khâu quan trọng : người Mèo rủ sư trưởng cùng đi. Ở đây, riêng

đồng chí Hoàng An là có quen biết anh ta, nhưng cũng đã mười lăm năm về trước. Trong mười lăm

năm sau đấy, không ai kiểm soát được người Mèo này làm gì, quan hệ với những ai. Thông tin chúng

ta có được từ tiểu đoàn 209 rất mỏng. Tiểu đoàn này cũng vừa được gom góp từ hai tiểu đoàn thiếu sau

các trận đánh nhiều tổn thất và một phần lính bổ sung vừa cập bến. Đại đội trưởng người Mèo này

chính thuộc bộ phận mới từ Bắc chuyển vào. Bây giờ, tôi giả định....

Tới đó, ông ta lim dim mắt lại, dường như đang nhìn vào những cảnh tượng xảy ra trong trí tưởng của

mình. Cả phòng họp nín thở chờ đợi. An cũng dán mắt vào đôi mắt khép hờ kia vì anh muốn phỏng đoán những

gì xảy ra phía sau chúng. Nhưng tiểu đoàn trưởng đã mở choàng mắt ra, chăm chú nhìn sư đoàn phó :

- Tôi giả định rằng đại đội trưởng này đã từng có quan hệ với vua Mèo Hoàng-su-Phì, một kẻ thù đáng

gờm của lực lượng cách mạng trước ngày giải phóng Thủ đô. Tôi giả sử rằng anh ta có mối dây huyết

tộc hoặc chịu ơn sâu nặng của Hoàng-su-Phì. Như thế, chắc chắn anh ta sẽ nuôi dưỡng mối oán thù

thâm căn cố đế với cách mạng. Như vậy, việc anh ta lợi dụng quan hệ họ hàng về phía ngoại mà hành

động trả thù là đương nhiên. Các đồng chí đã quên rằng quân đội của chúng ta từng chịu những tổn

thất rất lớn trong cuộc chiến đấu với Vua Mèo trên cao nguyên Đồng văn ở biên giới phía bắc. Chính

đồng chí Hoàng An cũng biết đội quân của vua Mèo vô cùng tinh nhuệ. Vốn dĩ là dân miền núi, họ leo

núi leo cây thần tình trong khi lính của chúng ta ở đồng bằng không chịu quen khí hậu băng giá và

không vượt qua được những đỉnh núi tai mèo nhọn hoắt. Họ được nuôi ăn đầy đủ và tập bắn từ thuở

lên mười. Đội quân này nổi tiếng là những thiện xạ bắn trăm phát trúng cả trăm phát. Hoàng-su-Phì vô

cùng giàu có nên trang bị cho đội quân của ông ta những thứ vũ khí hiện đại mà lúc đó quân đội chúng

ta cũng chưa có được. Với tất thảy những ưu thế như vậy, họ khống chế hầu hết những con đường độc

đạo và từ trên núi xả đạn xuống tàn sát quân của chúng ta. Lính ngã xuống không biết bao nhiêu mà kể

xiết. Thắng lợi của mặt trận Đồng Văn đã phải trả bằng một giá rất đắt. Tôi nhắc lại một đoạn sử để

các đồng chí có thể hình dung được bối cảnh câu chuyện. Giờ, giả định rằng đại đội trưởng Mã Lỳ này

là hậu duệ của Hoàng-su-Phì đã thay tên đổi họ để trà trộn vào quân đội chúng ta. Gặp sư trưởng chính

là dịp thuận lợi nhất để anh ta trả thù...Anh ta vừa tiêu diệt được một cán bộ quân đội tầm cỡ, vừa bôi

nhọ danh dự ông. Chúng ta đã từng sống với sư trưởng nhiều năm. Không ai có thể tin được ông làm

chuyện bậy bạ ô nhục, mà trong tình cảnh oái oăm khó hiểu như vậy. Tôi cho rằng người Mèo này đã

gợi những chuyện gia đình gia tộc có liên quan tới người bà con sư trưởng rồi bắn lén ông. Sau đó, y

lột quần của ông và của y bỏ lại để tạo nên hiện trường giả của sự dâm loạn. Tôi ngờ rằng sư trưởng

chết nhưng y còn sống và đã tẩu thoát. Sự việc phải được chuẩn bị kĩ trước khi hành động. Các đồng

chí chớ quên rằng chúng ta là người Kinh nên đối với chúng ta rừng núi lẫn bóng đêm là một thế giới

xa lạ, đáng sợ. Nhưng với người Mèo, họ vào rừng như cá trở về với nước. Nhất là khi họ đã chuẩn bị

áo quần lẫn vũ khí tuỳ thân.

Mọi người ồ lên tán thưởng :

- Đúng rồi!

- Đơn giản thế mà chẳng ai nghĩ ra được ?

- Tất cả chúng tôi đều phải biết ơn đồng chí. Thiên hạ nói không ngoa : Một khi cóc đã mở mồm.

Ai nấy chen nhau ào ào lên tiếng. Tất cả đều thở phào. Mọi gương mặt đều trở lại nhẹ nhõm và mọi ánh

mắt đều trở lại linh hoạt. Cuối cùng họ cũng đã tìm ra được lối thoát. Ý kiến của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba

giống như ánh sáng cuối đường hầm. Không ai không tán dương ông. Sư đoàn phó vươn qua mặt bàn, vỗ vai

ông và nói :

- Tuyệt vời!

An nhìn mọi người, trong lòng thầm nói :

― Thằng Mèo chó chết kia. Cuối cùng , chính mày mới được liệt kê là kẻ thay tên đổi họ chứ chẳng phải

tao. Giờ thì bản án đã tuyên bố : Mày là kẻ sát nhân. Mà sự thật cuối cùng cũng đích xác là như vậy ‖

Như một sự trớ trêu của định mệnh, bên tai anh lại văng vẳng câu hát Con gà rừng :

Au Zénith - Dương Thu Hương - 230


« Con gà rừng;

Sao mày ăn lộn với lũ công,

Sao mày gian dối, hỡi con gà rừng ?... »

***

*********

***

Cuộc họp vừa tan, An đã trở lại hầm và tức khắc lăn xuống giường ngủ. Giờ cơm trưa anh cũng không

dậy. Đại đội phó đến tận nơi, dựng anh lên :

- Anh ốm hay sao mà bỏ bữa như vậy ?

- Không ốm, nhưng buồn ngủ. Điệu này chắc sắp sốt rét trở lại.

- Dậy ăn cơm. Nhà bếp nói sáng nay anh đã bỏ bữa rồi.

- Tôi đắng lưỡi.

- Tôi mang sẵn thuốc phòng sốt rét cho anh đây. Nhưng phải ăn no mới được uống.

« Thôi mình đành cố ăn vậy. Ốm lúc này cũng quả là bất tiện cho mọi người. »

Anh nghĩ và tung chăn ngồi lên :

- Nào thì đi ăn. Cậu ăn chưa ?

- Tôi chờ anh. Hôm nay cấp dưỡng kiếm được ít rau ngót rừng. Lại có canh mà ngụp lặn.

- Anh em trong đại đội xong bữa rồi chứ ?

An hỏi, đoạn cài khuy áo và bước ra khỏi hầm. Đại đội phó đi sau anh, đáp thủng thẳng :

- Lính ăn xong quay về lán chơi tu-lơ-khơ hoặc ngủ. Chúng nó hết trò xem. Ngoài suối tổ trực nhật đã

thu gom các hiện vật đem về sư đoàn.

- Ra thế...

An bật cười vì lối giải thích của đại đội phó, anh hỏi tiếp :

- Ban lãnh đạo đã giải thích sự việc này hay chưa ?...

- Đâu đã đủ thời gian tuyên bố ? Nhưng lính tráng nghe lỏm cũng biết hết rồi. Tin tức truyền đi từ hành

lang sư đoàn xuống các tiểu đoàn, rồi từ các tiểu đoàn toả xuống các đại đội nhanh hơn tên bắn.

- Ở rừng mà....Còn chuyện gì kích thích hơn đâu ?

- Vâng. Chờ mấy năm mới được một buổi xem văn công. Chẳng dè xem xong lại có người thiệt mạng.

- Cậu có tin ở số phận hay không ?

- Tôi tin trăm phần trăm. Chẳng dám nói ra nhưng mọi người đều nghĩ như vậy. Ở chiến trường có ai

tránh được đạn đâu ? Chính đạn tự chọn đích mà bay đến. ? Nếu không phải số mệnh định đoạt thì tại

sao đạn găm vào người này mà tránh người khác trong cùng một tình thế, cùng một thời gian ?

- Số mệnh có mà cũng không. Nếu quả thực được quyền chọn lựa thì người ta không bao giờ tự đem

thân ra chiến trường, nơi đầu tên mũi đạn.

- A. Vấn đề này hiểu theo mấy ông thầy chiêm tinh là vận mệnh quốc gia, là số mạng chung của một tập

thể. Vận mệnh quốc gia tuỳ thuộc vào người đứng đầu chứ không thuộc bọn lính quèn hay lũ dân đen

như chúng ta đây. Thời xưa, nó tuỳ thuộc vào vua. Thời nay, nó tuỳ thuộc vào ông chủ tịch.

- Nói như cậu hẳn chủ tịch của chúng ta phải có một lá số tử vi khốn nạn lắm nên dân mới phải đem thân

vào chốn rừng sâu núi thẳm như vầy ?

- Ồ. Tôi không định nói như vậy. Ồ, đồng chí đừng trêu cợt tôi.

Đại đội phó lắp bắp, mặt tái mét. Anh ta nháo nhác đảo mắt nhìn bốn xung quanh. An bảo :

- Đừng sợ. Chính tôi nói những điều ấy chứ không phải cậu. Mà tôi cũng không đủ trí khôn để tự cất lên

những lời lẽ như vậy. Tôi nghe được từ ông thầy chiêm tinh người Việt nhưng sống lâu năm trên đất

Lào. Tôi chỉ lặp lại những gì ông cụ đã dạy tôi thôi.

- Vâng.

Đại đội phó cất tiếng thở phào đoạn hạ giọng :

- Anh biết không , tôi cũng nghe một người nói hệt như vậy. Nhưng ông ấy không phải là nhà chiêm

tinh mà là một sử gia.

Au Zénith - Dương Thu Hương - 231


A. Một sử gia cũng cần có bộ óc chứa nhiều hòn sỏi như một nhà chiêm tinh. Nhưng chúng ta sắp đến

nhà ăn rồi. Chuyện này riêng cậu với tôi biết thôi.

- Vâng.

Đại đội phó đáp, gần như thì thầm.

-

Họ ăn xong, đồng hồ đã chỉ một giờ rưỡi. Năm gian nhà gỗ rộng rênh chỉ còn lại hai người. Bên ngoài,

nắng tràn lên khắp ngả. Gió hiền hoà chạy dọc các bờ cây làm lung linh trăm ngàn tia phản chiếu của các đám

sương còn đọng trên những phễu lá dày. Ven bìa rừng, hoa dại nở chói lọi. Đại đội phó nhìn những cánh hoa

mỏng như bươm bướm chen nhau khoe sắc đỏ sắc tím và buột miệng thở dài :

- Tôi nhớ nhà quá ...

An lặng im, chờ đợi.

Quả nhiên, đại đội phó không nén được lòng, nói tiếp :

- Đám hoa này khiến tôi nhớ những vườn cải chạy dọc sông. Mùa xuân, hoa cải nở vàng ươm, bướm

ong bay về nườm nượp. Thời con trẻ, tôi chạy theo mẹ ra bãi nhổ cải. Đến tuổi cập kê, chúng bạn rủ đi

tầm hội hết cả tháng giêng, đi đâu cũng thấy hoa cải vàng chạy dưới chân đê.

- Đúng rồi, tôi nhớ một câu ca dao của người Kinh :

Tháng giêng là tháng ăn chơi

Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè.

- Vâng. Ấy là câu ca dao thời xửa thời xưa. Ngày tôi ở nhà, hợp tác vận động bà con đi làm từ mồng

năm tết. Nhưng làm thì làm, rồi người ta vẫn tìm được cớ để mở hội mùa xuân. Bởi đó là tập tục.

- Trên tôi cũng vậy, người ta gói bánh, rang bỏng mật rồi ngồi đánh bài suốt cả tháng giêng. Nếu không

có hội cũng chẳng làm gì vì trời mưa phùn liên miên không ngớt. Lúc đó lúa đang chờ mà các nương

sắn cũng làm cỏ xong rồi.

- Trên miền núi ngày hội có kéo dài như ở dưới xuôi không ?

- Không dài nhưng cũng đủ đường đất rong chơi. Hội Đàn xuân kết thúc, chúng tôi rủ nhau đi xem hội

Tung còn của người Thái, rồi hội chơi khèn của người Mèo. Thường chỉ đám trai bản, mạnh chân khoẻ

tay và có ngựa tốt là dám đi chơi xa. Đàn bà con gái quanh năm ở lại nhà.

Hai người lặng im hồi lâu, rồi đại đội phó hỏi :

- Bao giờ chiến tranh kết thúc ?

An hỏi lại :

- Bao giờ ?

Chẳng ai có thể đem lại lời giải cho bài toán ấy. Một thời khắc lặng lẽ trôi qua. Đột nhiên, đại đội phó bật

lên hỏi :

- Anh có nhớ thằng Toàn híp không ?

- Sao không ? Nó là cây hề của trung đội Một. Giờ liệu xương nó mục chưa nhỉ ? Hơn hai năm rưỡi rồi

còn gì ? Mà đất ở đó quanh năm ẩm ướt, sương tụ, mưa núi rả rích, rêu phủ trơn như bôi mỡ từ chân

lèn xuống lòng khe. Chẳng xương cốt nào trụ được với thứ thổ ngơi ấy.

An không nghe đại đội phó trả lời. Quay sang, thấy cậu ta mím chặt đôi môi nhưng nước mắt chảy nhoè

nhoẹt. Đôi vai xuôi rung từng đợt như đang cơn sốt rét. Anh đưa mắt nhìn quanh nhưng may mắn chẳng còn ai

có thể thấy họ lúc này. Tổ anh nuôi thu dọn xong về hầm ngủ. Có lẽ chỉ còn bầy chim thóc mách trong khóm

rừng kề cận nhà ăn. Giơ một bàn tay lên, vuốt dọc sống lưng người đồng đội, anh nói :

- Khóc được như thế là tốt lắm. Khóc đi cho nhẹ lòng.

Một tiếng nói thứ hai cất lên trong con tim anh cùng lúc :

― Cậu còn có may mắn là được khóc với tôi. Còn tôi, tôi luôn phải khóc một mình. Tôi sẽ còn phải khóc

một mình cho đến ngày cuối cùng của kiếp sống.„

Hai người ngồi ở đó cho đến khi đại đội phó trấn tĩnh lại, lau mặt, rút trong túi cặp kính rẻ tiền mà anh ta

đã khổ công mang theo mấy năm chiến tranh để nguỵ trang cặp mắt còn đỏ hoe và sưng mọng. Bên kia trảng

cỏ, thấp thoáng đám lính trần truồng. An ngạc nhiên hỏi :

- Họ làm gì bên kia thế ?

Đại đội phó xì mũi và đáp :

- Lính bắt nước khe chảy xuống để tắm.

- Sao chúng nó không ra suối ? Tắm nước khe dễ cảm lắm còn nước suối giờ này đã ấm lên rồi.

- Anh quên rằng sư trưởng vừa chết đuối ? Sáng nay lính đổ ra đông nghịt để ngó nghiêng.

- Nhưng nước chảy không ngừng và cuốn trôi tất thảy. Vả chăng sông cũng như suối chảy qua biết bao

miền, làm sao đếm được bao nhiêu kẻ đã chết đuối từ thượng nguồn xuống đến hạ lưu ?

Au Zénith - Dương Thu Hương - 232


Vâng...Nhưng sư trưởng lại chết đúng đoạn suối này nên giờ đây lính sợ. Có lẽ anh là dân miền núi

nên không biết nỗi sợ của người Kinh...Dân châu thổ sông Hồng cũng như những vùng sông khác đều

bị ám ảnh bởi cuộc săn đuổi ráo riết và độc ác của Ma Nam. Theo huyền thoại, Ma Nam chính là oan

hồn những người bị chết đuối. Họ tìm cách dìm chết những kẻ khác . Bởi khi dìm chết những kẻ khác,

họ sẽ có cơ hội được giải thoát khỏi địa ngục, được đầu thai trở lại kiếp người.

- À, ra thế.

An đáp.

-

Và một tiếng nói thứ hai lại cất lên trong anh :

« Nếu vậy kẻ đầu tiên bị dìm chết sẽ là ta.

Không chỉ một con ma Nam mà những hai con ma Nam sẽ tìm một kẻ thù chung cần đổi mạng.

Nhưng đã từ lâu ta không còn biết sợ hãi. Sự sợ hãi đã từ lâu rời bỏ ta ; cả óc não lẫn tâm hồn. »

Anh đứng lên, nói :

- Tôi muốn tắm quá. Cậu có thích ra suối với tôi không ?

Đại đội phó nhìn anh một cách hãi hùng :

- Tôi ?...Tôi vừa tắm chiều qua.

An cười bảo :

- Đừng sợ, tôi chỉ cần cậu ngồi bên bờ suối xem tôi tắm. Nếu không dẹp bỏ sự kiêng kị này, làm sao giải

quyết được chuyện sinh hoạt bình thường của lính ? Trên một ngàn quân đứng tranh nhau mấy dòng

nước khe bé tẹo teo như nước bò đái để tắm ắt xảy ra đánh đấm nhau. Trong khi con suối mênh mông

bỏ trống. Tôi không tin chuyện ma Nam.

- Vâng.

- Đi theo tôi.

- Vâng.

Đại đội phó đáp như cái máy và rồi bước theo anh cũng như một cái máy. Họ ra bờ suối. Vài tốp lính

quẩn quanh trong rừng tò mò đi theo. Ở đó, An cất cao giọng hỏi :

- Cậu nào xuống đây bơi thi với Ma Nam ?

- Báo cáo thủ trưởng, gan chúng em còn bé.

- Chờ đấy.

An nói rồi cởi quần áo lội xuống suối, bơi ra tận giữa dòng nhào lên ngụp xuống như một vận động viên

nhà nghề trổ tài trước khán giả. Vừa ngụp lặn, anh vừa đưa mắt nhìn lên con thác Voi gầm trắng xoá :

― Chẳng còn kẻ nào đau khổ hơn ta. Chẳng nỗi tuyệt vọng nào sâu nặng hơn nỗi tuyệt vọng găm trong tim

ta. Như thế, chẳng sức mạnh nào có thể quật đổ ta trước khi ta trả được mối thù này.‖

Đám lính trên bờ vỗ tay. Họ thấy An mỉm cười nên càng vỗ tay hăng hái hơn vì tưởng rằng anh đang cười

với họ. Nhưng thực sự, anh đang cười với chính số mệnh cay nghiệt của mình.

***

*********

***

Mùa thu năm Quý Tỵ, lúc đó An đang đóng quân ở Tuyên Quang. Một người bà con trong đoàn dân

công tải lương gặp anh vồ vập báo tin:

― Nàng Nhỏ được tiến vua, anh đã biết chưa ? Tổ chức cách mạng tìm cho chủ tịch một người phụ nữ

Kinh nhưng chủ tịch lại yêu Nàng Nhỏ của chúng ta nên giờ đây em vợ anh đã thành hoàng hậu. Nàng được

đổi tên là Chí thị Xuân. Mười hai gia đình bản Xíu giờ đây cũng đổi sang họ Chí sau khi biết tin ấy. ‖

Au Zénith - Dương Thu Hương - 233


An đã nhập ngũ được hai năm. Hai năm ròng không mảy may tin tức gia đình. Cuộc gặp gỡ người bà con

kia khiến anh vui sướng ròng rã hàng tháng. Niềm vui ấy như một thứ than cháy chậm, âm ỉ giữ ngọn lửa hoài

hoài không tắt.

Ngay ngày hôm đó, An gặp tiểu đoàn trưởng :

- Báo cáo ban lãnh đạo, từ giờ tôi không còn là Nông văn Thành nữa mà là Chí văn Thành.

- Tại sao ?

Tiểu đoàn trưởng ngạc nhiên hỏi .

- Vì chú tôi là chủ tịch xã quyết định như thế. Bản tôi chỉ có mười hai nóc nhà nên người cầm đầu đã

quyết là dân bản cứ thế mà tuân theo. Người bà con vừa gặp báo cho tôi tin đó.

- Phải chăng người bà con của đồng chí đang ở trong đoàn dân công đóng trước doanh trại chúng ta ?

- Vâng. Chính xác như vậy.

- Tuy nhiên, thay tên đổi họ cũng phải có lý do chứ ? Không dưng, ai làm như vậy ?

- Báo cáo thủ trưởng, chắc chắn là phải có lý do. Nhưng lý do ấy chỉ chú tôi và mấy ông già thông thái

trong bản biết với nhau. Chúng tôi, phận con cháu không được quyền vặn hỏi.

Anh tủm tỉm cười đáp lại.

Thấy thế, tiểu đoàn trưởng liền cười theo và đáp :

- Được thôi. Chúng tôi tôn trọng quyết định của các lãnh đạo địa phương.

Nói rồi ông nhanh nhảu ra lệnh cho trợ lý. Anh này lục tìm cuốn danh bạ đơn vị, hí hoáy tẩy chữ Nông

thay vào đó chữ Chí. Thế là xong. Trên chiến khu, tất thảy mọi người đều tình nguyện đi đánh giặc, nào ai có

nhu cầu tìm kiếm lợi lộc gì, thế nên sở thích riêng đều dễ dàng thoả mãn. Huống chi anh lại là người dân tộc

thiểu số. Các dân tộc thiểu số là chỗ dựa vững chắc của cách mạng tháng tám và cuộc kháng chiến trường kì.

Bất cứ cán bộ lãnh đạo nào cũng biết nguyên tắc này : Trong mọi hoàn cảnh, cán bộ và chiến sĩ người thiểu số

được quyền hưởng sự ưu đãi.

― Nàng Nhỏ của chúng ta giờ đã thành hoàng hậu !‖

Niềm vui ấy cháy âm ỉ suốt những ngày còn lại của cuộc kháng chiến cùng với cái tên Chí văn Thành.

Dường như cái tên mới này cũng đem lại nhiều may mắn cho An dù trong tiểu đoàn, từ lính đến sĩ quan, chẳng

ai hiểu nguồn gốc bí ẩn của nó. Anh được thăng vượt cấp vì thành tích chiến đấu. Nhưng cái may lớn nhất là

qua bao nhiêu trận mạc anh vẫn bình yên, chưa hề xầy vẩy xướt da. Anh không có cơ hội gặp nàng Nhỏ, tuy

biết nàng đã rời bản Xíu về sống ở khu văn phòng chính phủ, cùng chiến khu Việt bắc. Nhưng niềm kiêu hãnh

về nàng thắp sáng tâm hồn anh. Với anh, nàng là người em gái, hoặc nàng chính là một đứa con ? Anh cũng

không biết nữa. Mối dây liên kết giữa họ chẳng hề giống như những người anh rể và em vợ bình thường. Nàng

Đông đã là bạn từ thuở cởi truồng nên khi Nàng Nhỏ ra đời chính anh đã cùng Nàng Đông nuôi dưỡng đứa em

nhỏ. Ông Cao vốn đa tài đa phận, rời quê hương giang hồ đất khách đến bốn mươi hai tuổi mới quay về bản

cưới vợ, một cô gái mỹ miều kém ông hai mươi ba tuổi chẵn. Khi bà chết, ông đã ngoại năm mươi. Tuổi ấy,

chẳng người đàn ông nào còn có thể bồng ẵm hoặc cho trẻ bú mớm. Trong ngôi nhà rộng rênh của ông, xưởng

cưa chiếm gian chính giữa, bàn thờ vợ gian ngoài cùng, còn gian trong nơi gầy bếp lửa được ngăn thành ba

gian buồng nhỏ vách gỗ chính là nơi hai đứa trẻ lên chín tập sự làm cha làm mẹ nuôi cô em mồ côi đỏ hon hỏn

trong nôi. Dạo đó, hai năm tròn An rời nhà sang chiếm một trong ba gian buồng gỗ nhỏ, gian giữa dành đặt nôi

đứa bé, còn gian bên kia là của Nàng Đông. Ông Cao ngủ ngay cạnh bếp để giữ lửa. Trước cửa buồng của đứa

bé, một đĩa nến cháy suốt đêm. Nếu nó khóc, khi là nàng Đông khi là anh thức dậy thay tã lót và lấy bình sữa

cho nó bú. Hoạ hoằn, cả hai chưa kịp dậy ông Cao sẽ rung chiếc chuông đồng đánh thức họ...Thật kì lạ, tiếng

chuông rung lanh lảnh trong đêm khuya. Ấn tượng đó anh không quên được. Tiếng chuông giống một thứ âm

nhạc thô sơ nhưng sống động vang lên ròn rã trong tuổi thơ của anh. Đôi khi, nó làm cho đứa bé ngừng khóc,

giương đôi mắt tròn xoe lên nhìn. Anh cũng nhớ chiếc đĩa sâu lòng bằng gốm đỏ đựng sáp ong, tim nến se bằng

sợi thô to hơn chiếc đũa. Ánh lửa lung linh chập chờn hắt bóng họ lên bức vách. Ánh lửa rọi lóng lánh lên quả

cầu bằng giấy trang kim treo lủng lẳng giữa tao nôi. Bàn chân đứa bé giơ lên đạp đỏ như hoa mồng gà...Anh

cũng còn nhớ như hôm qua cách thức ninh một nồi cháo nửa phần nếp nửa phần đỗ xanh ra sao cho nhừ

nhuyễn mà không khô cũng không quá loảng. Anh nhớ cách thức lọc cháo để lấy nước rồi cho vào bình. Anh

cũng biết cách vắt sữa trâu, canh sữa trâu cho đặc, rồi cất giữ ra sao cho khỏi lên váng. Bản Xíu không nuôi bò,

chỉ thuần trâu. Trẻ nhỏ uống duy nhất thứ sữa đó. An nhớ chiếc chậu gỗ thường tắm cho Nàng Nhỏ, anh một

bên và nàng Đông một bên, cùng thò tay vào kì cọ cho đứa bé. Đấy là cuộc đời thật mà lại tưởng như trò chơi.

Bởi chính họ cũng đang còn niên thiếu. Cái trò chơi ấy liên kết ba người trong một mối tình kì lạ. Thế nên,

anh cưới Nàng Đông từ năm mười bảy cho đến ngày nhập ngũ đã hai mươi bảy tuổi tròn mà chẳng ai thắc mắc

chuyện họ không có con...Đành rằng cưới vợ xong rồi anh vẫn tiếp tục xuống huyện đèn sách. Cũng đành rằng

thời ấy chuyện hiếm muộn con không quá quan trọng như ngày nay nhưng dẫu sao, vẫn là sự bất thường. Nàng

Nhỏ sống chen giữa hai người, một mối tình pha trộn biết bao nhiêu mầu sắc. Cả ba cảm thấy đầy đủ nên Nàng

Đông cũng như anh chẳng tìm thầy chữa chạy bệnh vô sinh như láng giềng khuyên.

Au Zénith - Dương Thu Hương - 234


Cuộc kháng chiến kết thúc đường đột một năm sau ngày anh thay tên đổi họ. Anh chẳng còn cơ hội quay

về bản Xíu vì vợ anh đã tìm anh đúng ngày các cánh quân chuẩn bị tiến về giải phóng Thủ đô. Nàng Đông ôm

chặt lấy anh, vừa cười vừa khóc. Mai ngày, nàng sẽ sống với Nàng Nhỏ tại thành phố Hà nội. Còn anh ? Số

phận mỉm cười với anh lần nữa nên đơn vị anh sẽ đóng tại Hà đông, tỉnh lỵ Hà đông cách Hà nội có mười cây

số, đạp xe không quá một giờ. Đối với họ, dường như cánh cửa thiên đường đã mở.

Tuy nhiên, ngày đầu tiên tới thăm hai người, An đã thấy không vui. Anh đi dọc theo cái hành lang dài và

tăm tối đó, lòng tự hỏi vì sao người ta có thể xếp Nàng Nhỏ ở một ngôi nhà tầm thường như vậy ? Tuy phía

trên là ba gian phòng cao rộng, trang nhã kèm theo bếp và khu phụ riêng. Nhưng dẫu sao, nó vẫn chỉ là một

gian gác của dân thường, nơi ăn chốn ở của bất cứ người dân sung túc nào ở thành phố. Nàng Nhỏ của anh là

hoàng hậu. Liệu có bà hoàng hậu nào bị xếp một rọ, sống cùng với thứ dân ? Hay vì chúng ta là dân Tày ? Một

bà hoàng hậu người Tày không được quyền đòi hỏi như một bà hoàng thuộc dân tộc chính thống ?

Lòng ngổn ngang nhưng anh không nói. Bởi cả hai người đàn bà đều đang tột độ mừng vui. Chiến tranh

đã kết thúc, mạng sống cầm chắc trong tay. Sau bao nhiêu ngày cách xa, giờ được đoàn tụ. Chẳng ai cầu mong

điều gì hơn thế. Họ lại được cùng ngồi bên nhau,quanh một mâm cơm. Không phải trong ngôi nhà sàn rộng

rênh thuở xưa, giữa bốn bề trập trùng rừng núi, mà trong một gian gác lịch sự nhưng nhỏ hẹp, là nơi ăn chốn ở

của những người ở đô thành...

Sau bữa cơm, An hỏi Nàng Nhỏ :

- Chủ tịch có bằng lòng cho em ở đây không ?

- Có chứ. Chủ tịch bảo chúng ta phải sống giản dị. Giản dị như những người bình thường.

- Vậy là em hài lòng, đúng không ?...

- Dạ... Em hài lòng. Em yêu chủ tịch.

- Chủ tịch có yêu em không ?

- Có chứ.

Nàng Nhỏ kêu to :

- Chủ tịch rất yêu em....

Và hai má nàng bỗng dưng đỏ tưng bừng :

- Chủ tịch là người chồng rất tốt.

Đêm ấy, trong vòng tay Nàng Đông, anh cất tiếng hỏi :

- Em hãy cho anh biết, Nàng Nhỏ của chúng ta có hạnh phúc thật sự hay không ?

- Có. Anh đừng lo. Nàng Nhỏ của chúng ta vô cùng hạnh phúc. Tuy chủ tịch cao tuổi, nhưng vẫn còn là

bạn gối chăn đắc lực.

- Sao em biết ?

- Chúng ta là người miền núi, không có điều chi phải kiêng dè. Em đã hỏi thẳng Nàng Nhỏ của chúng ta

về chuyện đó. Nàng đáp rằng với chủ tịch nàng hạnh phúc hơn là với người đàn ông đầu tiên.

- Ra vậy. Giờ anh có thể yên tâm.

Sự yên tâm của anh kéo dài được hai năm, cho dù thi thoảng anh vẫn lượn xe quanh khu nhà các tướng tá

lẫn các bậc lương đống triều đình để quan sát họ. Càng nhìn họ, lòng anh càng hậm hực bởi các phu nhân

người Kinh được ở biệt thự riêng, có vườn cây bao quanh, có lính gác cổng, có xe Volga đi chợ, cho dù họ mắt

híp môi thâm, nếu đứng cạnh nàng Nhỏ của anh thì chẳng xứng mặt con hầu.

Rồi đến ngày đứa cháu gái đầu ra đời, hạnh phúc che mờ mọi nỗi bất bình cũng như các hiềm khích. Mỗi

chủ nhật, An đạp xe ra thành phố với tâm trạng của đứa trẻ đi chảy hội hoặc của gã trai mới lớn đến gặp bạn

tình. Lần này, anh lại được làm bố. Nàng Đông lại được làm mẹ. Không còn là bản Xíu. Họ không còn phải

ninh cháo đậu và vắt sữa trâu. Đời sống đô thị bí bức hơn nhưng cũng thuận tiện nhiều bề vì thế cả hai người

đều thấy tâm hồn phơi phới như cánh rừng sang xuân khi đứa bé khóc cười với họ. Trong lúc đó, người mẹ thật

sự lười lĩnh ngủ hoài hoặc nhìn họ chăm sóc đứa con với đôi mắt tràn trề mãn nguyện.

An không bao giờ gặp chủ tịch tại ngôi nhà ấy vì anh chỉ có thể ở lại đến sáu giờ rưỡi tối ngày chủ nhật.

Sau bữa cơm chiều, phải tính cho đủ thời gian đạp xe quay lại Hà đông trước hiệu kèn đêm. Giờ ngủ quy định

là chín rưỡi. Anh biết rằng văn phòng phủ chủ tịch thường cho xe đón Nàng Nhỏ vào dinh nhưng thi thoảng và

thường là đột ngột, khi thu xếp được công việc, chủ tịch đến thăm vợ con vào lúc nửa đêm và chính ông đặt tên

cho đứa con gái. Một cái tên cổ xưa, đầy tinh thần đạo đức : Nghĩa.

Khi được thông báo về chuyện đó, An tỏ vẻ bực mình :

- Thiếu gì tên hay, sao lại đặt cho cháu tôi cái tên cứng ngắc như vậy ? Trung đội của tôi có đến ba cậu

tên là Nghĩa. Trần trung Nghĩa; Đào duy Nghĩa; Ngô thành Nghĩa ...

- Ồ, xin anh đừng giận.

Au Zénith - Dương Thu Hương - 235


Nàng Nhỏ tươi cười can gián :

- Con của chủ tịch mà.

Và vợ anh cũng tiếp lời :

- Em nó nói đúng đấy. Là bố mới có quyền đặt tên con.

An im lặng.

Nhưng tuần sau, anh bắt đầu gọi con bé bằng cái tên do chính anh tìm :

- Nó đẻ năm con dê nên tôi gọi nó là Mùi. Gọi thế cho dễ nuôi. Nào, Mùi lại đây với dượng.

- Ba ...ba...

Đứa bé đã nói được thành tiếng khi vừa tròn chín tháng. Con bé này lưỡi quá nhọn. Chẳng đứa trẻ nào

có thể biết nói sớm như nó. Môi nó đỏ như gấc, mà nụ cười của nó giống hệt nụ cười của người cha.

Năm sau, khi Mùi đầy tuổi, anh mua một chiếc ghế mây, buộc vào dóng khung xe phía trước. Đặt con bé

vào đấy, anh đèo nó đi chơi khắp các phố phường. Rất nhiều lần, hai dượng cháu diễu đi diễu lại trên đoạn

đường chạy qua phủ chủ tịch. Đứa bé líu lô như sáo còn anh nhìn ngắm toà nhà đó như ngắm nhìn một toà

thành bí ẩn hoặc một pháo đài ma. Và anh thầm nói với người đàn ông sống trong đó, phía sau những hàng rào

đầy lính canh, sau những bức tường và những khuôn cửa không bao giờ thấy mở. Người đàn ông anh chưa từng

gặp mặt, chưa bao giờ đối lời, nhưng vẫn tồn tại trong gia đình họ, tham gia vào mọi cuộc bàn cãi, trò chuyện,

mọi kế hoạch cuộc đời của họ. Một sự tồn tại vô danh, vô tướng, vô hình. Không phải là bóng ma, cũng chẳng

là con người đích thực:

― Này ông chủ tịch, liệu ông có nhìn thấy con gái ông ngồi trên chiếc xe cởi truồng tồi tàn này không nhỉ

? Dầu ông là người có quyền lực cao nhất nước, ông cũng chỉ là anh em đồng hao với tôi thôi. Và bởi lẽ tôi lấy

người chị, còn ông làm chồng cô em nên nếu ngồi vào mâm rượu chính ông sẽ phải rót rượu cho tôi trước.

Như thế đó, luật lệ của chúng tôi, những người Tày. ‖

***

********

***

Những năm sung mãn, những mùa sung mãn thường đến với con người một cách bất ngờ, ngoài sự chờ

đón của họ.Vì thế, chẳng ai ngờ là khi con bé Mùi được mười một tháng, nàng Nhỏ đã lại mang thai lần thứ hai.

Trước hết, Nàng Đông phàn nàn là con bé Mùi đi tướt cả tuần, uống thuốc nào cũng không cầm được. Sau đó,

nàng Nhỏ bỗng mắc chứng thèm ngủ, ngủ ngay cả trong bữa ăn. Mọi người chưa kịp hiểu ra sao, bà già hàng

xóm đã bảo :

- Thế này có nghĩa là mẹ nghén nên con bú sữa độc ...Trẻ bú sữa độc thì chẳng thứ thuốc nào cầm nổi.

Tại sao chẳng ai biết chuyện này ?

- Ồ....Chẳng ai biết thật.

Nàng Đông đáp. Bởi chưa ai từng qua cảnh này để hiểu được sự tình. Vậy là con bé Mùi phải cai sữa

tức khắc. Thật may mắn là nó rất ngoan, chỉ qua hai đêm khóc hờn rồi sau đó quay sang ăn bột và bú sữa bình

thun thút. Vả chăng, từ thuở mới lọt lòng nó đã ngủ với Nàng Đông, nó quen hơi dì còn hơn hơi mẹ đẻ. Người

ta bảo con đầu thường ngơ ngẩn,dại khờ. Nhưng con bé Mùi khôn lạ. Chiều thứ bẩy, cứ lặn mặt trời là nó ra

ban công ngong ngóng chờ dượng Thành. Dòng người cuồn cuộn trên phố xá không làm con bé nhầm lẫn.

Nhiều khi nó giơ tay vẫy anh khi anh đang còn dừng xe trước đèn hiệu đỏ ở ngã tư. Chiếc xe đạp Vĩnh Cửu đen

xì không thanh chắn bùn của anh chính là con ngựa quen thuộc của đứa bé, hứa hẹn biết bao cuộc dạo chơi kì

thú. Khi tới nơi, dắt xe lên vỉa hè, ngước lên ban-công anh đã thấy nó cúi xuống mỉm cười nụ cười thiếu nữ,

gương mặt rạng rỡ và đôi mắt đen ngời lên ánh sáng. Nhiều khi, An giật mình vì tưởng như đang còn ở bản

Xíu. Vào những buổi chiều thời xa xôi ấy, khi anh và nàng Đông đi củi về, Nàng Nhỏ đứng đầu sàn chờ đợi

cũng cười nụ cười im lặng và rạng rỡ như con bé giờ đây. Kỉ niệm mới chồng lên kỉ niệm cũ. Dấu vết yêu

thương điệp lên nhau, hoà trộn cùng nhau trong trái tim anh. Cứ như thế cuộc sống êm đềm của họ tiếp diễn

cho đến ngày Nàng Nhỏ sinh đứa con thứ hai, vào năm Thân. Năm Bính Thân. Vào một chiều thứ bẩy, khi anh

Au Zénith - Dương Thu Hương - 236


vừa bước chân vào nhà, Nàng Đông chạy ùa ra ôm cổ anh và với vẻ mặt vừa hãnh diện vừa ẩn giấu một vẻ

long trọng bí ẩn, thầm thì báo tin :

- Một đứa con trai. Nặng ba cân sáu. Dài năm mươi tám phân.

- Ồ, như thế là tốt, có nếp có tẻ.

Anh đáp.

Nàng Đông đứng ngẩn ra nhìn anh trong giây lát rồi bảo :

- Anh nói thật tức cười.

- Sao ? Anh nói điều gì sai trái hay lầm lẫn mà khiến em tức cười ?

- Không sai trái cũng không lầm lẫn.

Vợ anh tủm tỉm nhìn anh:

- Nhưng không phải chỉ là nếp với tẻ. Anh quên rằng một đứa con trai là vô cùng quan trọng với người

làm cha.

- À...Anh hiểu.

Anh cũng tủm tỉm cười và đáp lại Nàng Đông :

- Anh hiểu tầm quan trọng của kẻ nối dõi tông đường. Từ giờ trở đi anh nhường cho em nuôi dưỡng

thằng bé, nhân vật quan trọng, còn anh sẽ chăm sóc con Mùi, vì con bé ít quan trọng hơn.

- Thế anh có vào viện thăm Nàng Nhỏ không ?

- Không....Ngày mai anh sẽ đi chợ nấu cơm và đưa con Mùi lên bách thảo xem hổ, xem gấu. Vào viện sẽ

là việc của em.

An không hiểu vì sao anh có phản ứng như vậy. Anh còn nhớ đôi mắt tròn xoe kinh ngạc của vợ nhìn

mình. Cái nhìn ấy dán vào lưng anh khi anh đi vào gian buồng bên trong. Cái nhìn ấy ám ảnh anh như một câu

hỏi câm lặng. Một bài toán không có lời giải đáp...Mãi về sau này anh mới hiểu rằng linh giác đã chỉ dẫn

những hành vi của anh...Rằng anh đã cảm thấy bóng đen âm u của loài ác điểu xòe ra trên đầu họ vào thời khắc

mà Nàng Đông báo tin cho anh, một cái tin lẽ ra phải đem lại niềm hân hoan tột độ cho tất thảy mọi

người...Ngày hôm sau, chủ nhật, anh đèo con Mùi lên vườn Bách thảo. Lúc quay về, con bé đòi đứng lại trước

phủ chủ tịch xem...mấy chú lính gác. Anh đành xuống xe, dựa pê-đan lên vỉa hè xi-măng để chiều nó. Nhưng

họ vừa đứng được vài phút, lính gác đã ra hỏi giấy tờ. An xuất trình thẻ quân nhân. Người lính xem xét kĩ càng

rồi nói :

- Đây là khu vực cần bảo vệ. Đồng chí nên đưa cháu ra nơi khác mà chơi.

- Tôi đâu có muốn làm phiền các đồng chí ? Chỉ do trẻ nó đòi thôi.

Lúc ấy, chính đứa bé cất lời :

- Cháu xem. Cháu xem các chú bộ đội...

Con bé líu lô. Có lẽ vì lời trẻ bi bô làm người lính mềm lòng nên anh ta lui gót. Tuy nhiên, con tim An đã

trở nên âm u. Anh nhìn vào toà nhà bên trong những rặng cây xén tỉa :

« Sung sướng gì khi người cha sống trong lâu đài còn đứa con ngồi trên chiếc xe đạp cởi truồng và nhìn

vào với đôi mắt thèm khát ? Có ích gì cuộc tình éo le này ? Nếu Nàng Nhỏ của chúng ta chẳng lọt vào mắt vị

vua già, nó ắt phải kiếm được tấm chồng xứng đôi vừa lứa. Trên miền quê, chúng ta đâu thiếu cảnh ấm êm ?

Ngôi nhà sàn của ta cao rộng gấp ba lần những ngôi nhà chật hẹp nơi phố xá. Chưa kể nhà ông già bố vợ, cả

xưởng cưa đặt lọt thỏm vào một gian ? Chúng ta có đất, có trâu đàn, có lợn bầy. Gà hàng trăm con đẻ trứng ăn

không kịp. Chúng ta có rừng có suối, có ong dại ong nuôi và thú săn. Đành rằng ở đây cuộc sống tiện lợi và văn

minh hơn nhưng đất đai eo hẹp và lòng người cũng eo hẹp. Phải chăng cuộc ra đi của chúng ta là một sai

lầm ?»

Dòng suy nghĩ chưa chấm dứt, một người khác từ vọng gác đã tiến lại phía họ. Lần này, hẳn là sĩ quan

phụ trách nhóm lính. Anh ta buông từng lời một cách khô khan :

- Đây là khu vực cần nghiêm mật bảo vệ, yêu cầu đồng chí đưa trẻ đi nơi khác.

Không đáp nửa lời, An quay xuống bảo cháu :

- Không đứng được ở đây con ạ. Dượng đưa con ra chợ Ngọc Hà rồi mua cho con quả bóng. Con nghe

rõ chưa ?

Rồi anh trèo lên xe, đạp đi luôn. Phía sau lưng , hẳn anh chàng sĩ quan phải đưa mắt nhìn theo một cách

bực tức. Trong thâm tâm, An biết rằng thái độ của anh vô lý bởi những gã lính kia cũng như anh, họ phải thi

hành một phận sự, một mệnh lệnh giáng xuống từ những kẻ đứng cao hơn. Nhưng dẫu sao, con tim anh cũng

không ghìm được cơn phẫn nộ :

« Này ông ? cha đẻ của đứa bé đang ngồi trong lòng tôi đây - Anh thầm nói với người anh em đồng hao

chưa từng gặp mặt - Liệu ông có mường tượng ra cảnh này ? Một đứa con đứng trước ngôi nhà của cha đẻ mà

không có quyền vào cũng chẳng có quyền ngắm nghía. Một đứa con bị đuổi khỏi cổng ngôi nhà cha nó đang là

chủ nhân ? Liệu cảnh trớ trêu này có khiến ông động tâm, ngài chủ tịch ? Giờ đây, con gái ông còn quá nhỏ để

Au Zénith - Dương Thu Hương - 237


hiểu sự tình. Nhưng mai đây, khi khôn lớn, liệu nó có thể coi ông là một người cha tử tế hay chỉ là kẻ vô tâm

buông quăng bỏ vãi những hạt máu của chính mình ? Cái dinh thự nguy nga kia liệu không có nổi một gian

phòng cho vợ con ông trú ngụ hay vì một cơn cớ thầm kín, đen tối nào đó mà ông chấp thuận cho Nàng Nhỏ

của chúng tôi ăn ở chen chúc lẫn lộn giữa đám thứ dân ? Phải chăng vì hoàng hậu là người miền núi nên nàng

buộc chịu cảnh ngược đãi của triều đình ? Cái triều đình thường ban bố các loại chiếu chỉ : Ưu đãi người thiểu

số ! »

Những ngờ vực, giận dữ đã chôn vùi bấy lâu trong đáy sâu tâm hồn anh bỗng trồi lên. Những lời nguyền

rủa cũng vậy, chúng ào ào mọc lên trong óc não anh như rừng măng vầu măng trúc lúc sang xuân. Anh không

nhận ra rằng anh đã đạp xe vòng trở lại đường Hoàng Diệu để nhìn ngắm như ghi, như khắc hình ảnh những

dinh thự nguy nga, vườn bên phải ,vườn bên trái, sân trước sân sau của các vị rường cột triều đình. Sau đó, anh

lại tiếp tục đạp theo đường Phan đình Phùng để nhìn lại những biệt thự khác, mà anh đã thuộc lòng tên chủ

nhân của chúng, để nỗi oán hờn căm giận tiếp tục ngoi lên từ con hồ lặng lẽ trong tâm hồn anh.

« Đây là nơi dành cho các phu nhân mắt híp, môi thâm chứ chẳng dành cho Nàng Nhỏ của chúng ta, cho

dù nàng muôn ngàn lần xinh đẹp. »

Anh thầm nghĩ với nỗi cay đắng, khi thấy một bà bộ trưởng ngồi trong chiếc Volga vụt qua mặt anh, cổ

rụt xuống vì những lăm thịt dâng lên tận cằm và cặp mắt ti hí nhỏ như sợi chỉ nhìn phố phường với vẻ ngạo

nghễ. Chiều hôm đó trời rất đẹp nhưng anh chìm đắm trong những suy tưởng u ám mà không có cách nào thoát

ra được. Anh thương con bé Mùi ? Anh thương Nàng Nhỏ ? Hay anh cảm thấy sự bất lực của mình trước cuộc

cờ số phận ? Mãi đến bữa cơm tối, khi vợ anh từ bệnh viện trở về với vẻ mặt hớn hở của trẻ bắt được quà anh

mới tạm quên đi những dằn vặt chua xót.

Nàng Đông bảo :

- Ba hôm nữa chúng ta đón Nàng Nhỏ về nhà. Như thế em không còn phải mang cơm vào viện.

- Sức khoẻ của nó có tốt không ?

- Của ai ? Nàng Nhỏ hay thằng bé ?

- Nàng Nhỏ.

Vợ anh cười :

- Nàng Nhỏ khoẻ và vui. Nhưng em thấy là anh trọng nữ khinh nam. Anh chẳng hỏi han gì thằng bé.

Anh bật cười theo :

- Bởi vì cả xã hội đã trọng nam khinh nữ rồi nên anh đành làm ngược lại. Em không thích như thế hay

sao ?

- Em thích.

Vợ anh đáp lại tức khắc. An biết rằng Nàng Đông vô cùng hạnh phúc với anh. Mối tình của họ bắt đầu

từ thuở lên năm, nếu nói cho thật đúng là tình con trẻ. Và tình yêu đôi lứa khởi sự ở tuổi trăng rằm. Tình yêu

thơ dại kết nối với hơi thở nồng đượm của tuổi ái ân, như một dòng chảy không ngưng cạn. Anh lại là người

phóng khoáng, chẳng câu nệ việc của cải, cũng không quá tha thiết với kẻ nối dõi tông đường. Những năm đèn

sách ở huyện đã đem lại cho anh lối nhìn cuộc sống khác hẳn những người đàn ông cùng thời đại. Điều đó

giống như một thứ quà tặng được ban phát từ bàn tay đấng toàn năng. Nhiều lần, vợ anh nói :

- Ôi, thật may mắn sao là chúng ta ở hai bên một sườn đồi.

Và anh đáp lại rằng :

- May mắn rằng ngày anh ra đời lại có một cô hàng xóm chờ sẵn.

Nàng Đông vặn hỏi :

- Thế nghĩa là anh chê em già hơn anh mười lăm ngày ?

Anh bảo :

- Cho dù em có ra đời trước anh mười lăm năm em vẫn là vợ anh. Số kiếp đã định như thế.

- Chao ôi !...

Vợ anh kêu lên :

- Anh là người nói khoác giỏi nhất trần gian.

Mọi cuộc chuyện trò của họ đều kết thúc bằng tiếng cười. An chưa từng thấy cặp vợ chồng nào gắn bó

với nhau theo kiểu ấy. Thời họ còn trẻ, anh chẳng mảy may ngờ vực hạnh phúc của mình. Nhưng sau ngày đứa

con trai của Nàng Nhỏ ra đời, một linh cảm âm u thường xuyên lởn vởn trong óc não anh, ngay cả những

khoảnh khắc vui vẻ nhất. Anh thường nhớ lại những danh ngôn học được từ ông thầy dạy sử, người anh chịu

ơn nhiều nhất trong những năm đèn sách ở huyện Thất Khê.

« Những mỹ nhân cũng giống loài hoa rực rỡ, sớm nở tối tàn ; bởi trời xanh đã ban cho họ một nhan sắc

lộng lẫy khiến bao kẻ phải thèm khát, ghen tuông, trời cũng sẽ tước đi của họ một phần đời sống. »

Nhan sắc hai chị em Nàng Đông càng ngày càng trở nên rực rỡ đến chính anh cũng ngạc nhiên. Thời gian

không chạm được đến họ, ngược lại , năm tháng khiến cho vẻ đẹp của họ thuần thục hơn, quyến rũ hơn, thần bí

Au Zénith - Dương Thu Hương - 238


hơn. Đã nhiều lần An chứng kiến những kẻ qua đường dừng lại, sửng sốt nhìn hai nàng như nhìn những nữ

thần sông, thần núi hiện hình. Ở đất thủ đô này, đốt đuốc giữa ban ngày cũng không thể tìm được một thứ

nhan sắc chim sa cá lặn như vậy. An hiểu rằng thứ nhan sắc ấy chỉ có thể được tạo ra trên vùng đất quê anh ;

nơi không khí thanh sạch đến độ người ta có thể nhìn mọi vật như nhìn một thứ pha-lê vào những ngày tạnh

sương mù hay mưa núi ; nơi những rừng hoa mận nở trắng xoá lúc sang xuân ; nơi những thác hoa kim ngân

tuôn chảy triền miên dọc theo các dòng suối mùa hè ; nơi hoa tím điệp vào sắc lèn đá tiết thu muộn ; nơi

quanh năm các loài ong rù rì, múa lượn và cho thứ mật màu hổ phách ngào ngạt phấn hoa ; nơi khe, suối trong

veo chảy giữa các bờ đá tắm táp không ngừng da thịt con người và tưới nhuần những vùng ruộng bậc

thang...Những mỹ nhân của bản Xíu lớn lên trong vùng trời ấy, hít thở bầu không khí ấy, được nuôi dưỡng bởi

thứ mật ong rừng hoà trộn hàng trăm loại phấn hoa dại, bởi sữa trâu và các loại gia cầm gia súc đất nhà. Da họ

mơn mởn như trái đào, mắt họ trong như pha-lê, cái nhìn của họ thăm thẳm như vực sâu, như hang núi. Chẳng

cần son môi họ cũng đỏ chon chót như trái ớt chín và sau màu đỏ rồ dại ấy, chứa chất và hứa hẹn biết bao lạc

thú. Dường như An đã yêu Nàng Đông từ thuở lọt lòng. Nơi quê họ, dân bản sống theo kiểu người cùng một

đại gia đình, không có chuyện tranh cướp tình ái. Mãi sau này, anh mới biết rằng chắc chắn vợ anh đã gieo rắc

vô số những mơ mộng và ham muốn nơi những người đàn ông, dọc đường nàng đi. Và như thế, anh cũng hiểu

vì sao vị vua già say đắm Nàng Nhỏ. Khó có người đàn ông nào đứng vững nổi trước những người đàn bà mà

cùng một lần, nhan sắc của họ giống như lưỡi gươm bén, nhưng tâm hồn bình dị và thánh thiện của họ hứa hẹn

một tổ ấm miên viễn, một đời sống lứa đôi ấm áp không đòi hỏi nhiều hao tổn óc não cũng như tâm cơ. Dù

Nàng Đông chẳng mảy may ý thức về điều đó, nhưng An biết anh đang thống lãnh một thành trì. Để bảo vệ

thành trì đó, cần có trí thông minh lẫn lòng dũng cảm. Niềm kiêu hãnh trong tâm hồn anh luôn pha trộn sự cảnh

giác. Đối với Nàng Nhỏ, liệu vị vua già có cùng suy nghĩ như anh ?Hoặc là ỷ thế làm vua, thay vì trân trọng

một mối tình hiếm hoi như thế, ông ta tự cho mình quyền coi mỹ nhân như một thứ sơn hào hải vị ?

Những suy tư ảm đạm ấy, anh không dám thổ lộ cùng ai, anh không muốn làm phiền muộn hai người đàn

bà, những người anh yêu quý hơn chính bản thân mình. Anh trở thành kẻ im hơi lặng tiếng trước những cuộc

chuyện trò rối rít niềm vui và hy vọng của họ :

- Em sẽ vào dinh chủ tịch ngày mai chứ ?

- Vâng. Văn phòng đã lên lịch vào ngày mai. Lái xe sẽ tới đón em lúc chín giờ.

- Em đã chuẩn bị kĩ những điều cần nói chưa ?

- Em không cần chuẩn bị nhiều. Em chỉ nói một câu đơn giản thôi : Vì đã có đủ con trai lẫn con gái,

chúng ta cần được chính thức hoá trước pháp luật.

- Được rồi, ngày mai sẽ là ngày bận rộn. Chị sẽ nấu cơm sớm lên một chút và em nhớ cho thằng bé bú

lúc tám giờ.

Ngày hôm sau chính là chủ nhật. An đưa con bé Mùi đi chơi từ mười giờ sáng, dặn hai người đàn bà rằng

anh sẽ về muộn. Buổi trưa, anh dắt cháu vào cửa hàng ăn phở rồi đưa nó đi xem xiếc vào ca ba giờ chiều. Tan

cuộc, hai dượng cháu ra về khi mặt trời đã tụt xuống phía sau các mái nhà phía tây thành phố. Con bé nằm lăn

ra ngủ còn anh ăn cơm vội vàng rồi đạp xe vào doanh trại, không hỏi han một lời về cuộc gặp gỡ quan trọng

của Nàng Nhỏ với người cha của những đứa con nàng. An vẫn nhớ cái nhìn dò hỏi của vợ anh trong lúc nàng

đang là quần áo cho cô em. Còn Nàng Nhỏ, quá bận bịu về đứa con trai nên không để tâm đến sự im lặng bất

thường của anh. Hoặc là, trong tâm trạng tràn trề hạnh phúc và các dự phóng tương lai, nàng chẳng quan tâm

đến ngoại cảnh...Trên đường vào Hà Đông, An đã tự trách mình về sự lãnh đạm kì dị đó. Nhưng ngoài mọi lý

lẽ, một nỗi buồn vô cớ cắn xé anh. Một nỗi buồn bất khả cưỡng chế và bất khả lý giải. Ngày nối ngày trôi qua

nặng nề. Dù ở trong lớp huấn luyện hay ngoài thao trường cùng lính, An cũng có cảm giác là anh đang sống

trong mộng, dường như chân anh không bước trên mặt đất mà bập bõm trong mây. Vì sao ? Anh không hiểu.

Đôi lúc, trí nhớ gọi anh về bản Xíu, với ánh hồi quang của những ngày hạnh phúc. Đôi lúc, trí nhớ dắt anh về

lại thị trấn Thất Khê, trong mái trường mà anh đứng lênh khênh giữa đám học trò như con ngỗng đứng giữa bầy

vịt. Hoặc là, anh thấy lại ngôi nhà thơm phức mùi chè của ông thầy dậy sử, bởi vợ ông bán chè mạn nên anh

thường đến ngồi đóng gói chè giúp đám con cháu trong nhà, tiện thể nghe ông kể đủ thứ dã sử cũng như chính

sử , của triều đình Tàu cũng như triều đình ta, nghe Tam quốc chí và Đông Chu liệt truyện đến thuộc làu làu.

Đôi lúc, anh cảm thấy con tim se sắt mà chẳng rõ cơn cớ vì sao, nhưng chắc chắn có một nỗi lo âu mơ hồ nào

đó giăng mắc xung quanh như tấm lưới nhện khổng lồ.

Tới thứ bẩy, sau giờ luyện quân, An vồ lấy xe đạp. Nhưng rủi ro là vừa đi được vài trăm mét săm trước

nổ tung nên anh đành phải tìm quán vá. Người thợ chìa trước mắt anh cái săm chằng chịt mụn vá, chỗ phồng

chỗ tẹt như khúc dồi lợn luộc vụng :

- Xin kiếu đồng chí. Chẳng còn đất vá nữa. Nhất thiết phải thay săm mới thôi.

- Xin bác cố gắng giúp. Chúng tôi chưa đến thời hạn được phân phối săm lốp.

- Tôi xem kĩ rồi. Tôi đã chịu thì chẳng ai dám mó tay vào nữa, bảo đảm là như vậy.

Không có cách nào hơn là dắt xe quay về doanh trại, mượn chiếc xe chở thực phẩm của cấp dưỡng. Ai

cũng biết rằng xe cấp dưỡng là thứ xe được ưu tiên hàng đầu nên săm lốp luôn luôn mới. Tổ cấp dưỡng cho anh

mượn xe với điều kiện phải trả đúng trưa hôm sau để họ còn kịp đi chợ chiều. Cò kè năn nỉ một hồi, An kéo

Au Zénith - Dương Thu Hương - 239


được giờ mượn xe tới ba rưỡi chiều, như thế anh còn đủ thời gian đèo con bé Mùi đi xem ca múa nhạc ở Cung

thiếu nhi thành phố. Hài lòng vì thắng lợi, An hối hả đạp xe về Hà nội. Khi anh đến nơi, phố xá đã lên đèn. Con

bé Mùi không đứng trên ban-công chờ đón anh như thường lệ. Chắn chắn vì anh tới muộn. Anh thầm nghĩ rồi

dắt xe qua cái hành lang dài dặc và thiếu sáng, chào hỏi ba người lính mặc thường phục mà anh đã quen. Ở

trong sân, anh nhận ra con bé Mùi đang ngồi chơi đồ hàng với hai đứa bé khác, cháu ngoại bà già hàng xóm.

Thấy anh, con bé chạy ùa ra đu lấy cổ dượng, hôn chi chít lên hai má. An muốn bồng con bé lên nhà, nhưng bà

già hàng xóm đã bảo :

- Bác cứ để cháu ngồi chơi ở đây...bác gái dặn tôi như vậy...

Nghe tới đó, An đã thấy tim anh đổi nhịp :

« Có chuyện gì đặc biệt xảy ra mà bắt con bé ngồi đây chơi vào giờ này ?.. »

Nhưng anh không tiện hỏi bà già nên đành để con bé quay lại chơi với bạn rồi lên gác. Hai người đàn bà

ngồi chờ anh bên mâm cơm. Nhìn vẻ mặt họ, anh hiểu một nửa phần sự thật. Nhưng anh lại cất tiếng cười :

- Anh để mọi người chờ lâu quá. Sắp lả đi vì đói rồi phải không ? Chờ anh rửa mặt xong ta ăn cơm.

Hôm nay phải mượn xe cấp dưỡng vì nổ săm.

- Xe công của quân đội mà cũng không đủ săm dùng hay sao ?

Vợ anh hỏi.

- Xe công nào cũng chịu chỉ định phân phối săm lốp. Mà phân phối thì từ may-ô, quần đùi đến cơm

gạo, thực phẩm đều không đủ dùng. Hôm nay, các em cho anh ăn món gì vậy ?

An chuyển chủ đề.

Nàng Đông tiếp lời anh :

- Hôm nay em làm món nộm chuối với thịt luộc chấm mắm tép của người Kinh.

- Bữa sau, anh đề nghị em nấu món phở chua cổ truyền.

- Người ta bảo phở chua Lạng sơn ngon hơn phở chua Thất Khê quê mình vì họ cho thêm vào nước

dùng hương liệu. Ngoài hành khô nướng, gừng nướng, chi quế, hoa hồi, còn một vài thứ nữa coi như bí

mật nhà nghề. Nếu anh muốn, hôm nào rảnh em ra phố hàng Mắm ăn thử. Ăn dăm ba lần khắc tìm ra

công thức.

- Nếu vậy, em thử xem sao. Phở chua Lạng sơn đã từ lâu có tiếng.

Nhờ cuộc đối thoại ấy, họ có thể tạm quên đi mọi chuyện và kết thúc bữa cơm. Nhưng đến tuần trà, anh

biết rằng không thể nào tiếp tục vờ vĩnh vui vẻ. Cái lưới nhện khổng lồ vô hình vây quanh họ đang thít lại

những mắt lưới hung hiểm của nó. Anh là người đàn ông, bậc gia trưởng, anh phải là người trước tiên đề cập

đến sự thật :

- Nào, bây giờ đến chuyện của chúng ta. Anh chờ nghe đây.

Nàng Nhỏ vẫn im lặng nhưng vợ anh lên tiếng :

- Chủ nhật, em nó thưa chuyện với chủ tịch. Chủ tịch đồng ý nhưng còn phải chờ ý kiến tập thể của bộ

chính trị. Ngay thứ hai, vấn đề được đưa ra bởi đó chính là ngày có cuộc họp định kì. Nhưng ý kiến

của chủ tịch không được chấp thuận. Không có một phiếu chấp thuận.

- Vì lý do gì ?

- Vì họ không muốn chủ tịch có gia đình riêng. Vì họ muốn rằng chủ tịch chỉ là vị cha già của dân tộc

thôi. Vì....Vì....đấy là nghị quyết của bộ chính trị.

- Họ buộc chủ tịch phải chấp thuận ý kiến của họ ? Hay chính chủ tịch muốn tuân phục họ ?

Tới đấy, Nàng Đông im lặng. Hẳn vợ anh không thể trả lời. Và Nàng Nhỏ cũng thế thôi. Nhưng An vẫn

muốn đi đến tận cùng sự việc . Anh hỏi Nàng Nhỏ :

- Em gặp ông cụ vào ngày nào sau cuộc họp đó ?

- Thứ sáu. Khoảng mười một giờ chủ tịch cho xe đến đón em.

- Ông ấy giải thích ra sao ?

- Chủ tịch nói rằng trên nguyên tắc của đảng, thiểu số phải phục tùng đa số. Huống chi trong trường hợp

này tất cả bộ chính trị đều quyết định như vậy.

- Ông ấy còn nói gì nữa ?

- Chủ tịch nói rằng chủ tịch biết em chịu rất nhiều thiệt thòi....rằng chúng ta phải kiên trì sống trong

bóng tối một thời gian nữa chờ thời cơ thuận tiện để thuyết phục các uỷ viên bộ chính trị.

- Khi nói những lời lẽ ấy, vẻ mặt ông ấy ra sao ?

- Em không nhớ. vì em cúi xuống lau nước mắt.

- Ông ấy cười hay ông ấy khóc ?

- Chủ tịch cũng khóc. Chủ tịch ôm em, nói rằng : Họ thật thiếu tình, họ không thông cảm cho hoàn cảnh

của chúng ta.

- Chúng ta ở đây bao gồm những ai ?

Nàng Nhỏ ngước mắt nhìn anh, vẻ như không hiểu điều anh muốn nói. Lúc đó, An bình tĩnh lại và tự trả

lời mình :

- Chúng ta ở đây nghĩa là ông ấy với em và hai đứa nhỏ. Nói một cách thông thường bốn nhân mạng

trong một gia đình. Nếu là một gia đình bình thường thì đó là một gia đình đầy đủ.

Au Zénith - Dương Thu Hương - 240


Và trong lúc đó, một câu nói chua chát khác vang lên trong trí não anh :

― Nhưng rủi ro thay còn một thứ ― chúng ta‖ khác. Chúng ta này là cái tập thể tí hon bao gồm anh và vợ

anh và em, ba nhân mạng liên quan tới nhau không thể tách rời. Một liên quan sống còn, mật thiết. Mối liên

quan này nằm ngoài sự nhận biết cũng như mối quan tâm của chủ tịch. Nhưng điều trớ trêu là mọi quyết định

liên quan tới cuộc đời của ông ta sẽ giáng lên đầu chúng ta như những lưỡi gươm của số phận. Chẳng phải

vinh hoa phú quý mà chắc chắn sẽ là mất mát khổ đau. Những linh cảm đã không lừa dối ta.‖

Anh nhìn đôi mắt u buồn của Nàng Nhỏ, tim thắt lại. Anh biết làm gì bây giờ ? Anh biết làm gì để cứu

vãn tình thế, để che chắn những người thân yêu của mình trước cơn gió dữ ? Anh, người đàn ông duy nhất

trong cái gia đình bé nhỏ này ? Tại sao số phận xô đẩy họ đến đây ? An cảm thấy nghẹt thở, anh vùng đứng dậy

đẩy hai cánh cửa sổ mở trông xuống sân, rồi quay lại, cất tiếng :

- Này em. Giờ đây chúng ta phải bình tĩnh suy xét. Anh chưa hiểu rõ ý đồ của tập thể bộ chính trị.

Trước đây đọc sử anh vẫn thường thấy các triều đình cảnh tỉnh khi một vị vua quá yêu chiều một quý

phi. Nhất là khi vua già còn quý phi lại đang mơn mởn xuân thì. Sự lo lắng của các bậc lương đống

quốc gia là dựa trên những kinh nghiệm đồi bại trong lịch sử. Đường minh Hoàng mê đắm Dương quý

phi. Trụ Vương mê say Đát Kỉ. Ở nước ta chúa Trịnh Sâm say đắm cung phi Đặng thị Huệ. Nhưng

những trường hợp này hoàn toàn khác biệt tình cảnh của chúng ta. Những người đẹp của các vua Tàu

sống xa hoa trên lụa là châu báu. Mỗi bước đi của Dương quý Phi đạp lên một đoá sen đúc bằng vàng.

Lâu đài của Đát Kỉ phủ đầy gấm vóc và mỗi bữa ăn của nàng ta đáng giá hàng trăm lượng bạc. Đến

chiếc xe ngựa của quý phi cũng nạm ngọc dát vàng từ dưới đệm lên mui. Còn cung phi Đặng thị Huệ ở

xứ ta đã ỷ thế được chúa yêu, thả sức nhũng lạm vàng bạc, đưa vô số người thân vào phủ chúa và bao

che cho đứa em trai hung tàn bạo ngược là Đặng mậu Lân. Mậu Lân đi đến đâu cướp bóc tài sản của

lương dân ở đấy. Gặp bất cứ người nào, dù là đàn bà hay con gái, hễ vừa mắt là sai lính quây màn giữa

đường giữa chợ hãm hiếp người ta một cách thoả thuê...Kẻ nào trái ý chém chết ngay tức khắc. Sự

hung tàn bạo ngược của y khiến cho lê dân cũng như các trung thần trong triều muôn ngàn lần phẫn nộ.

Bao nhiêu sớ dâng lên đề nghị vua trừng trị Mậu Lân đều bị Đặng phi sai người xé đốt. Sau cùng, một

võ quan đã chém chết y rồi tình nguyện trói thân quay về chịu tội trước Trịnh Sâm. Xét trên cả ba

trường hợp đó, chúng ta chẳng liên quan gì đến sự xa hoa cũng như bạo ngược. Chúng ta sống nơi đây

như những thứ dân dưới mức trung bình. Anh là người đàn ông duy nhất trong gia đình này, chưa từng

cướp bóc hãm hại ai. Những đứa con của em ra đời trong một bệnh viện bình dân nhất, chẳng có lương

y triều đình cũng không có thầy thuốc của phủ chủ tịch. Con bé Mùi và em nó lớn lên như mọi đứa trẻ

con thuộc các gia đình công nhân hay cán bộ sơ cấp. Chúng ta chưa từng có một chút lợi quyền nào.

Chúng ta cũng chưa từng xâm phạm đến tài sản hay quyền lợi quốc gia. Cớ sao họ có thể đối xử với

chúng ta như vậy ?

Chẳng ai trả lời anh. Cả hai người đàn bà cúi đầu sùi sụt khóc. An hiểu rằng không ai có thể trả lời anh,

trừ phi có một ông Trời và một khi ông Trời này động lòng từ ái trước tình cảnh của họ. Nhưng anh chưa bao

giờ nhìn thấy một ông trời. Những thánh thần hoặc vong linh tiền nhân mà họ thờ cúng luôn luôn chỉ là những

làn khói phất phơ bay trên bàn thờ ngày lễ tết, và dường như mùi thơm của nhang trầm chính là sự hiện diện

gần gũi nhất mà anh có thể cảm nhận. Giờ đây, anh biết tìm trời ở đâu?

- Liệu em có dám hỏi thẳng ông cụ những điều anh vừa nói hay không ?...

An dằn giọng. Nàng Nhỏ khóc to hơn. Những cơn nức nở dồn dập hơn. Vợ anh ngước nhìn anh với cái

nhìn van vỉ. Cơn giận dữ tiếp tục trào lên trong anh như một nồi cháo sôi trên ngọn lửa cháy quá đà :

- Nàng Nhỏ, em cần phải hỏi ông cụ cho rõ ràng. Vì cuộc sống của em, và cuộc sống của những đứa con

em.

- Em cũng đã hỏi nhưng chủ tịch nói rằng chủ tịch cần phải sống gương mẫu. Rằng nếu em yêu chủ tịch

thì phải chấp nhận điều ấy. Rằng khi những đứa trẻ lớn lên tình thế sẽ đổi thay.

- Khi những đứa trẻ lớn lên ?...

Anh hỏi lại và không chờ đợi câu trả lời:

― Chao ôi, giờ ông ta đã hơn sáu mươi tuổi. Liệu chúng ta phải chờ ông ta đủ bát tuần để có thể sống

một cách chính thức với thiên hạ hay sao ? Chua chát thay cho Nàng Nhỏ của ta ! Chua chát thay cho thân phận

những đứa con của một vị vua già ! Những đứa cháu của ta, những đứa trẻ dù muốn hay không cũng liên đới

với ta bởi sợi dây của tình ruột thịt. „

Rồi một câu hỏi khác ập đến mà anh không thể ghìm nén :

- Này em, em có thật sự yêu ông ta không ?

Nàng Nhỏ nhìn anh với cái nhìn ngơ ngác :

- Anh hỏi gì ?

- Anh muốn hỏi rằng em thật sự yêu ông ta hay em yêu ông ta chỉ vì ông ta là chủ tịch nước ?

- Em yêu chủ tịch....Em yêu...

Au Zénith - Dương Thu Hương - 241


Nàng đáp lại rồi oà lên trong một cơn nức nở dữ dội hơn. Nàng Đông đưa mắt nhìn anh giận dỗi :

- Anh làm sao vậy ? Anh bị con mòng hay con rít cắn phải không ?

- Ồ không.

An đáp lúng búng. Anh chợt nhận ra rằng cơn tức giận đã xô anh đi quá đà. Có lẽ anh mong muốn cho em

anh có một số phận khác. Nhưng sợi dây oan nghiệt của định mệnh đã cột trói nàng với vị vua già, vị vua già

mà nàng lại trót yêu. Tình yêu cắc cớ trớ trêu đến như vậy. Trước đây anh vẫn hồ nghi, giờ anh hiểu Nàng Nhỏ

có thể yêu ông ta thật sự. Không phải vì ông ta quyền cao chức trọng mà trước hết bởi ông ta là người chồng

tốt, dù chỉ làm chồng trong những khoảnh khắc bị cắt rời.

― Lão già này hẳn là bẻm mép, giỏi tán gái ? „

Anh nghĩ, nhưng ngay tức khắc anh hiểu rằng ông vua già chẳng phải kẻ bẻm mép mà ông ta thật sự giỏi;

rằng ông ta có thể làm Nàng Nhỏ siêu lòng bởi những lời lẽ ngọt ngào đằm thắm mà tất thảy những gã đàn ông

trẻ trung hơn không biết nói, rằng ông ta có thể khiến nàng say đắm bởi những cử chỉ âu yếm đường mật mà

người bản xứ chẳng biết cách thể hiện, những thứ cung cách văn hoá xa lạ mà ông ta học được ở phương tây.

Cái sức mạnh đó không giống sức mạnh của người thợ săn giương súng lên ngắm con mồi, bởi nó không nhằm

chiếm đoạt những con mồi mà nó nhằm chiếm đoạt những con tim. Cái sức mạnh đó vô hình vô dạng nhưng

anh cảm nhận được một cách rõ ràng tựa hồ anh nhìn thấy ngọn lửa cháy, những hạt sương ban mai hay hoa nở

trên các triền núi. Cái sức mạnh ấy, chính anh từng cầm nắm trong tay. Hồi ức dẫn anh quay lại những buổi tối

ấm áp nơi bản Xíu, khi anh trở về từ thị trấn Thất Khê. Ngôi nhà sàn thênh thang bập bùng ánh lửa và chen

chúc láng giềng. Chú anh chuẩn bị sẵn một hũ rượu lớn, những mâm gỗ sâu lòng chất đầy đồ nhắm mặn lẫn

bánh trái và hoa quả. Thím anh rang đầy một thúng hạt hướng dương rồi sắp sẵn trà đường đãi khách. Dân bản,

già cũng như trẻ, ngồi vòng quanh bếp lửa như những khán giả đam mê xúm quanh một sân khấu mà diễn viên

duy nhất chính là anh. Đứng ở vị trí trung tâm, cậu học sinh phố huyện kể lại các liệt sử, các dã sử, các huyền

thoại của người miền xuôi cũng như các vùng núi non khác xứ. Tất thảy kho kiến thức mà ông thầy trường

huyện đã truyền thụ cho anh. Chú anh, ngồi ngay bên cạnh, khi đưa mắt nhìn anh với cái nhìn vừa yêu thương

vừa thán phục, khi cúi đầu xuống để che giấu vẻ hãnh diện trước xóm giềng. Ông là người thợ săn nổi tiếng

khắp vùng, người nấu cao hổ, cao gấu, cao sơn dương thành thục. Những miếng cao được sản xuất từ ngôi nhà

sàn của ông là thứ mà những người giàu có sành sỏi khắp nơi phải lặn lội về bản Xíu để tìm kiếm...Chính với

tiền bán những lạng cao ấy ông đã nuôi anh đủ bẩy năm đèn sách. Vậy mà khi nghe anh tán tụng tiếng sáo

Trương Lương, khi nghe anh bình phẩm cái chết của Quan Vân Trường, khi anh miêu tả trận Bạch Đằng với

tiếng hô Sát Thát...ông không tránh khỏi cảm giác thần phục của những người mù chữ trước một kẻ đọc thông

viết thạo.Và sự thần phục ấy lia sát đến biên giới của sợ hãi hay mê đắm. Sức mạnh chinh phục của văn hoá là

nghiệm sinh quan trọng nhất trong thời niên thiếu của An. Tuy anh chỉ là cậu học sinh trung cấp và chân trời

xa nhất của anh dừng lại nơi những dãy phố nhỏ với những mái nhà lợp ngói ống huyện Thất Khê. Để so sánh,

An hiểu rằng những gì anh hiểu biết chỉ là một hạt cát cỏn con trước một sa mạc mênh mông của con người lão

luyện kia, kẻ đã hai mươi năm giang hồ tứ xứ, kẻ nói được cả tiếng Tàu lẫn các loại tiếng Tây. Kho trí tuệ của

ông ta hẳn muôn ngàn lần rộng lớn hơn anh, và như thế, Nàng Nhỏ yêu ông ta cũng không phải việc lạ lùng.

― Nhưng cớ sao ta lại so sánh mình với con người quyền năng ấy ? Đấy là sự rồ dại. „

An thầm nghĩ một cách chua chát. Nhưng tức khắc, một tiếng nói khác dội lại như đáp lời :

― Vâng, ông muôn ngàn lần tài giỏi, quyền uy. Nhưng dẫu sao ông vẫn bước chân vào gia đình này sau

tôi, đứng trước bàn thờ tổ tiên của hai nàng, tôi được quyền thắp nhang trước. Còn giờ đây, vợ chồng tôi là

những người chăm chút con ông. Nói cho cùng, chính ông phải chịu ơn chúng tôi, hỡi vị vua già .‖

Buổi tối hôm đó trôi qua một cách nặng nề. Đêm đến, Nàng Đông ôm riết lấy anh. Họ không nói gì nữa.

Họ làm tình một cách lặng lẽ. Họ làm tình như lần đầu làm tình ven bờ con suối Sơn ca. Như tuổi mười lăm

được triệu hồi với tất cả sự hăm hở điên cuồng và sôi sục. Bởi thế, hôm sau anh ngủ đến tận non trưa. Khi tỉnh

giấc, vợ anh đã đi chợ còn Nàng Nhỏ dẫn hai đứa con xuống dưới sân chơi với bà già hàng xóm. An mở rộng

khuôn cửa sổ nhìn cảnh ba mẹ con nàng chơi dưới gốc sấu già. Dán mắt và cảnh tượng đó nhưng đầu óc anh

hoàn toàn mù mịt khói sương. Hoàn toàn trống rỗng. Không một ý nghĩ nào hiện lên rõ nét. Chẳng một cảm

giác nào có thể mô tả thành lời. An cảm thấy anh đã biến thành một thứ tượng gỗ biết đi lại, nói năng nhưng vô

cảm. Anh chìm đắm trong trạng thái mụ mị như thế giờ lâu cho đến khi vợ anh quay về. Nàng Đông bỏ làn thức

ăn xuống sàn, chăm chú nhìn chồng. Rồi, chừng như cảm nhận được trạng thái tinh thần kì dị của anh, nàng dẫn

anh vào phòng. Ở đó, nàng ôm lấy đầu anh một cách dịu dàng, dịu dàng ghì xiết vào bộ ngực nồng nàn của

mình. An gục mặt vào lòng vợ. Da thịt ấm nóng thân thuộc của nàng, và nỗi dịu dàng âu yếm của tình yêu

khiến anh dần dần trồi lên khỏi làn nước lạnh giá của sự vô cảm. Anh bật khóc. Khóc nức nở như một người

đàn bà. Khóc cơ cực như kẻ đói cơm rách áo. Khóc hờn tủi như một đứa trẻ bị lạc trên sân ga.

***

*********

***

Au Zénith - Dương Thu Hương - 242


Thứ bẩy tuần sau đó, An sẽ không còn thời gian để khóc.

Khi anh đạp xe tới nơi, ba người lính mặc thường phục nhìn anh với những con mắt âm u như mắt loài

quỷ dơi chuyên sống trong các hang sâu, trước hết, cái nhìn của Nông Tài, gã người Tày duy nhất trong nhóm

cận vệ. Dường như trong cái nhìn của gã, ẩn chứa một tiếng thét hãi hùng câm lặng, một hồi còi báo động, một

nỗi sợ hãi bị bóp nghẹn. An đưa mắt nhìn lại Nông Tài, gật đầu chào rồi tiến vào hành lang. Những cái nhìn tối

tăm của đám cận vệ đuổi theo anh, như rót xuống lưng anh một thứ chì nung lỏng. Nhưng con tim anh không

còn đập dập dồn như lần trước. Một tuần lễ đủ cho anh suy ngẫm và dự phóng mọi tai ương có thể xảy đến với

gia đình mình. Kho tàng lịch sử tàng trữ trong trí nhớ giúp anh chuẩn bị. Khi bước vào nhà, An khép chặt hai

cánh cửa sau lưng và không ngạc nhiên khi thấy hai người đàn bà ôm nhau khóc. Họ chỉ có thể khóc thôi, họ

còn biết làm gì hơn vào lúc này?... Nhưng tiếng khóc của họ không còn dừng ở mức độ phiền não mà là tiếng

khóc của sự kinh sợ và căm uất. Không còn là sự buồn thương cho số phận mà tiếng than ai oán của kẻ bị dày

xéo, bị hà hiếp, sống trong cơn kinh hãi trước cái chết đang từ từ tiến đến như một cỗ xe tăng sẽ nghiền nát họ

nay mai. An bước tới, không chờ những người đàn bà lên tiếng đã nhìn thấy ngay gương mặt sưng tím vết đòn

của Nàng Nhỏ. Anh ngồi xuống, cầm lấy hai cánh tay nàng, vén áo lên để xem những vết cào xước, những vết

máu tụ xanh và dấu vết các lằn trói chưa đủ thời gian tẩy xoá.

- Kẻ nào đã dùng nhục hình với em ?

- Quốc Tuỳ.

- Bộ trưởng bộ nội vụ. Cái thằng cha đã đón đường em hồi còn ở trên chiến khu Việt Bắc ?

Nàng Nhỏ gật đầu.

An quay sang hỏi vợ :

- Lúc ấy em ở đâu ?

- Em ở dưới sân với lũ nhỏ và bà già hàng xóm...Vừa bước chân vào nhà là ông ta đã đuổi em xuống

sân. Em không thể chống lại vì ông ta rút súng ra doạ nếu kêu to ông ta sẽ bắn vỡ sọ.

- Em có kêu , tiếng kêu ấy cũng chỉ có bà già hàng xóm và ba cậu lính gác nghe thấy mà thôi. Không

phải vô cớ mà chúng nó bố trí cho các em ở ngôi nhà này. Thằng khốn nạn ấy đến đây hôm nào ?

- Nó đến đây liên tục từ thứ hai cho đến hôm nay, thứ bảy. Lần nào cũng vào khoảng ba giờ chiều. Lần

nào cũng bắt lính gác lui ra ngoài phố, chặn đứng ngoài hành lang không cho ai bước chân vào. Lần

nào nó cũng đánh và trói em của chúng ta.

Tới đó, vợ anh bật gào lên :

- Tủi nhục quá anh ơi.

An nhếch mép mỉm cười. Nụ cười đối diện với số phận. Anh không có quyền khóc nữa. Chắc là vì dự

cảm mà tuần lễ trước con tim anh đã tan ra trong những dòng nước mắt. Anh phải khóc một lần cho cả kiếp

sống của anh. Cầm hai cánh tay nõn nà của Nàng Nhỏ, anh hỏi :

- Nó đã nói những gì với em, thằng chó đểu người Kinh này ?

- Nó bảo rằng nó đã để mắt đến em từ hồi trên chiến khu, khi gặp em lội qua suối. Rằng nếu em khôn

ngoan thì phải bằng lòng làm vợ nó từ ngày ấy. Rằng nó đã thề rằng trước sau nó cũng phải chiếm

được em.

- Rồi sao ?

- Rồi em nói rằng tôi là vợ chủ tịch. Chúng tôi đã có đủ mặt con trai con gái, ông không được hà hiếp

tôi. Nó nhe răng cười nói rằng lão già của mày ở xa lắm, mày kêu lão ấy cũng không nghe thấy, mày

gọi lão ấy cũng không thể trả lời. Ở đây tao là vua. Tao muốn ai người ấy phải chịu . Tao muốn giết ai

kẻ đó phải chết. Giờ đây tao muốn mày nằm dưới bụng tao. Bởi đó là nghị quyết của bộ chính trị. Bộ

chính trị đã quyết định mày phải là vợ tao. Hãy khôn ngoan lên một chút, tao trẻ hơn lão già của mày

nhiều. Nếu cái dùi cui của nó bằng gỗ thì của tao bằng thép. Nếu nó đưa mày lên tầng trời thứ ba tao sẽ

đưa mày lên tầng trời thứ chín. Nếu nó cho mày hai đứa con, tao sẽ cho mày mười hai đứa liền tù tì.

Khôn ngoan thì câm họng lại và dạng chân ra.

Người đàn bà kể đến đâu, nước mắt nàng tuôn rơi đến đấy.

An nghe những viên sắt nung đỏ lăn trong tim mình. Một đoạn sử quay trở lại văng vẳng bên tai anh :

« ...Nhà Chúa hèn nên Đặng Phi thông dâm với Ngự đầu quân, nương dựa vào viên võ quan này để che

chở cho đứa em trai ngạo ngược và dâm đãng là Đặng mậu Lân. »

Anh nghĩ :

« Em ta không tự ý ngủ với Ngự đầu quân mà bị nó hãm hiếp sỉ nhục và tra tấn.Vậy ông vua già này còn

mười lần hèn hơn Chúa Trịnh ngày xưa. Cơ đồ không còn cứu vãn được. Nếu ta không cao chạy xa bay toàn bộ

gia đình ta sẽ biến thành những con ma không đầu lang thang muôn kiếp trong bóng tối. Nỗi oan khiên đau đớn

Au Zénith - Dương Thu Hương - 243


của em ta sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi trong câm lặng. Và lãng quên. Một kiếp hồng nhan dạt qua cõi đời như xác

vờ bập bềnh trên sóng nước. Em ta chẳng có tội tình gì. Từ nhỏ tới lớn nó chưa nỡ nói một lời phạm tổn đến ai.

Tâm hồn nó trẻ thơ và trong trắng. Lòng tốt của nó đong đầy gấp ba lần đấu của những người xung quanh. Ta

phải tồn tại để cứu gỡ danh dự bị tổn thương của nó. Ta phải sống để làm nhân chứng cho tội ác ghê tởm này. »

Ông thầy huyện Thất Khê đã dậy anh rằng nghề viết sử là nghề của những bậc anh hùng, dám đem mạng

mình đổi lấy sự thật. Bởi mọi thứ vua chúa đều kinh sợ sự thật và muốn những người viết sử phải uốn ngọn bút

lông theo ý mình. Biết bao nhiêu cái đầu sử gia đã rụng xuống dưới lưỡi kiếm của đao phủ triều đình, nhưng

lịch sử vẫn tiếp tục viết lên bằng những dòng máu khô đen của họ.

« Vậy ta buộc phải trở thành người viết sử. Không phải người viết sử quốc gia nhưng là kẻ chép lại cuộc

đời những người thân thiết của riêng ta. »

Anh ôm chặt cả hai người đàn bà một lúc, nhìn họ một lần cuối như để vĩnh viễn ghi khắc những hình ảnh

đó trong con tim lẫn óc não mình. Rồi, anh hỏi vợ :

- Em còn mấy chiếc nhẫn ?

- Em còn đủ năm chiếc.

- Em hãy giữ lấy chiếc nhỏ nhất mà anh đánh cho em hồi mình cưới nhau. Còn lại, đưa cả cho anh. Tiền

mặt, chắc không có nhiều, nhưng cũng phải cho anh một món để tiêu dọc đường.

- Không, nhà mình còn khá nhiều tiền mặt tích trữ từ năm ngoái. Để em đưa cả cho anh.

- Bao nhiêu ?

- Khoảng chừng năm mươi vạn.

- Anh chỉ cần một nửa thôi. Em giữ một nửa để đi chợ.

Vợ anh vào buồng. Anh nhìn theo tấm lưng thon thả của nàng và nghĩ :

« Em sẽ chẳng còn dịp đi chợ, chẳng còn dịp nấu phở chua theo kiểu Lạng Sơn, người vợ yêu dấu của

anh. Cuộc sống của chúng ta bị cắt ngang như thân cây lúa ngày mùa. Chao ôi, cái ngày Nàng Nhỏ được tiến

vua chính là ngày tai hoạ cho gia đình chúng ta lẫn dân bản Xíu. Và cái việc đổi họ Nông sang họ Chí chính là

việc ngu xuẩn nhất trên trần gian.»

Nàng Đông quay ra với xấp tiền giấy trên tay. Tay kia, nàng cầm một chiếc túi nhỏ như cái mề gà. Đặt

xấp tiền lên bàn, nàng mở túi rút ra một sợi dây dài xâu bốn chiếc nhẫn, loại nhẫn gộc không mặt đá cũng

không trang trí mà những người buôn bán đường xa thường mang theo :

- Anh phải cất vàng vào túi quần đùi ; cái túi em máy thêm phía trong cạp.

- Anh hiểu rồi.

- Tiền giấy anh chia ra thành nhiều món xếp trong cả túi quần lẫn túi áo, lỡ mất món nọ còn có món kia.

- Anh hiểu.

- Còn lọ dầu xoa chống cảm lẫn thuốc chống đau bụng viên, anh cũng phải cầm theo. Ngoài ra còn đèn

pin, bật lửa, dao đi rừng, túi thuốc lá, cao chống rắn độc. Đủ hết chưa ?

- Có đủ trong túi dết.

- Để em xem lại cái túi dết của anh.

- Không thiếu gì hết.

An đáp và thầm nghĩ :

« Có cái thiếu trầm trọng nhất là thiếu em, và Nàng Nhỏ của chúng ta. Bởi anh không thể đưa các em

cùng đi trong cuộc hành trình khốn khổ này. Nhưng chúng ta sẽ gặp nhau ở cõi khác, vùng đất khác, nơi hẹn hò

chung cuộc của tất thảy chúng sinh. Rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau. Những người yêu dấu của anh. Nhưng trước

khi gặp các em, anh phải làm chuyện này cho ra lẽ. »

Lần cuối cùng, anh cúi xuống, ghì xiết hai người đàn bà, ngửi mùi thơm thân thiết từ những mái tóc óng

mượt của họ, chà sát mặt anh vào những gương mặt nõn nà ấy, rồi anh đứng lên :

- Các em đừng bước ra cửa. Đừng đi theo anh. Hôn hai đứa bé cho anh.

- Anh !...

Cả hai người bật kêu lên. An hạ giọng :

- Đừng khóc. Hãy coi mọi sự như chưa từng xảy ra, chưa hề xảy ra. Chúng ta không có cách nào hơn...

Anh bước xuống cầu thang, không ngoảnh lại một lần nào nữa.

Trong hành lang, An gọi Nông Tài :

- Cậu có sẵn tiền trong túi không ? Cho tôi mượn một vạn ? Tôi đang định mua mấy món đồ gửi người

mang về quê, nhưng chưa chuẩn bị đủ tiền.

Nông Tài đưa mắt nhìn anh :

- Bao giờ trả ?...

- Tuần sau. À, quên...Hai tuần nữa mới tới kì lương. Đến kì lương tôi sẽ trả ngay, không chậm một ngày.

Au Zénith - Dương Thu Hương - 244


Trong túi tôi chỉ còn đủ tiền mua vài chiếc bánh rán. Tôi cất tiền ở doanh trại.

Sắp đến giờ đổi gác rồi còn gì ? Nói với các đồng chí thông cảm cho về sớm một giờ được không ?

Được thôi. Chờ tôi hỏi đã.

Hành lang không quá dài để cuộc trao đổi của họ có thể lọt vào tai hai người cận vệ kia. An hiểu rằng

màn kịch chắc chắn sẽ thành công bởi thông thường, người miền núi vốn không biết nói dối. Chừng ba phút sau

đã thấy Nông Tài quay lại :

- Đi thôi, hai đồng chí đều đồng ý cho tôi về trước. Chúng ta đến chỗ tôi gửi xe đạp rồi cùng đạp về

doanh trại.

- Đồng ý.

Họ cùng đi ra..

Khi Nông Tài lấy được xe đạp, hai người lặng lẽ đạp xe qua ba con phố. Hoàn toàn tin tưởng rằng không

ai rõi theo họ, An dừng lại :

- Tạt vào hè đã.

Nông Tài hiểu ý anh tức khắc, xuống xe. Hai người lên vỉa hè, đứng dưới bóng một cây xà cừ. An hỏi :

- Hai cậu kia có biết rằng sớm hay muộn họ cũng sẽ phải chết không ?

- Không ai dám nói với ai nhưng cả ba chúng tôi đều ngầm hiểu như vậy. Chúng tôi gác ca chiều. Sự

việc xảy ra toàn vào buổi chiều nên chỉ ba chúng tôi chứng kiến. Tốp kia đổi ca từ mười hai giờ đêm

đến trưa hôm sau, họ không hay biết gì.

- Vậy sao các cậu không bàn nhau trốn đi ? Trốn đi đâu bây giờ ? Sáng nào cũng điểm quân trước giờ

tập thể dục, chiều nào cũng điểm quân trước lúc lên giường ngủ...Vả chăng, nếu muốn trốn họ cũng

không bàn với tôi vì tôi là người Tày. Còn tôi, tôi cũng không thể bàn với họ, vì họ là dân Kinh. Bộ

trưởng Quốc Tuỳ là người Kinh như họ. Còn Nàng Xuân là người Tày như tôi.

- Liệu họ có ngờ rằng tôi rủ cậu đi trốn không ?

- Không.

- Vì sao ?

- Vì họ cho rằng chúng ta là dân miền núi, những kẻ cả tin và ngu ngốc không dám hành động liều lĩnh

như vậy.

- Tốt. Vì chúng ta là những kẻ ngu ngốc nên có thể chúng ta sẽ thoát chết...Còn họ vì là dân đồng bằng

khôn ngoan nên họ sẽ cầm chắc cái chết trong tay. Giờ, không còn thời gian nữa. Chúng ta phải ra ga

thôi. Hy vọng rằng chúng ta sẽ không lỡ tàu với tấm chứng minh thư công an nhân dân của cậu...

- Nhưng ...còn quần áo với tiền và đồ đạc của tôi ở doanh trại ?

- Cậu có điên không ? Cởi truồng mà sống còn hơn chết đắp ba bộ quân phục trong hòm. Đi thôi.

-

-

-

Họ đạp thẳng ra sân ga Hàng Cỏ. Ở đấy, hai người gửi xe vào bãi rồi mua vé tầu xuôi Vinh. Đúng như

An dự đoán, tấm thẻ công an của Nông Tài được việc. Họ được ưu tiên mua vé tức khắc với lý do « làm nhiệm

vụ đặc biệt ». Vừa kịp bước lên toa tầu nhận chỗ, tàu đã hú còi rời ga. An đặt chiếc túi dết ra sau lưng rồi ngồi

xuống, đưa mắt nhìn phố phường lướt bên ngoài ô cửa :

« Vĩnh biệt mày, thành phố thù nghịch của tao. Cái thành phố tao từng mơ tưởng bao tháng ngày khi còn

ở chiến khu Việt bắc, cái thành phố tao ngỡ là thiên đường nhưng giờ đây lại hoá thành địa ngục. Chính nơi đây

sẽ là hầm mộ tăm tối chôn vùi vĩnh viễn những người thân thiết của tao. Vĩnh biệt con quái vật khổng lồ, ghê

tởm.»

An nghĩ, khi anh đưa mắt nhìn Hà nội. Lần cuối cùng, chắc chắn sẽ là lần cuối cùng anh còn thấy nó.

-

-

-

-

-

-

-

-

Anh Thành.

Nông Tài chưa kịp ngồi yên chỗ đã chồm qua mặt bàn, ghé tai anh thì thầm hỏi:

Anh Thành, tôi nghĩ rằng.

Cậu nghĩ gì ?

Tôi không hiểu vì sao chúng ta lại đi về phương nam ? Tiến sâu vào đồng bằng miền Trung, ta sẽ

giống con chồn sa xuống ruộng nước; như con cá lăng bị hất lên đồi. Tại sao chúng ta không quay về

Thất khê ? Ở đó, chúng ta thuộc đường chính cũng như đường tắt, chúng ta biết suối biết rừng. Trốn ở

đâu ta cũng có thể đào cây đào củ hay bẫy thú cầm hơi.

Đồ ngốc, Thất khê sẽ là nơi đầu tiên họ truy tìm. Chúng ta không thể chui lủi trong rừng mãn kiếp. Vả

chăng, có thoát được lưới quây vượt sang biên giới cũng sa vào tay lính Tàu. Bọn này sẽ tức khắc dẫn

độ chúng ta trả cho cho nhà nước Việt nam.

Nhưng ở miền Trung, nơi xa lạ ?

Chỉ có ở nơi xa lạ mới hòng thoát thân. Từ Vinh lên biên giới Việt-Lào ngắn hơn nhiều lần từ huyện

nhà lên biên giới phía bắc.

Sao anh biết được ?

Au Zénith - Dương Thu Hương - 245


Tôi phải biết để có thể thoát thân...Bằng mọi giá tôi phải học để hiểu những điều cần thiết trước khi

cất bước.

- Nhưng bên kia biên giới là đất của người Lào. Anh đã biết họ hay chưa ?

- Người Lào và người Tầu giống như con nai với con báo, chẳng thể so sánh với nhau.

Cuộc đối thoại thầm thì của họ chìm trong tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray. Rồi An bảo :

- Ngủ đi.

- Tôi chưa đến giấc. Vả lại bụng đói khó ngủ.

- Đúng. Không ai ngủ được khi đói bụng. Giờ cậu xuống căng-tin mua bánh mì. Ăn xong chúng ta sẽ

uống thật no nước. No bụng, dễ ngủ. Bằng mọi giá phải ngủ để lấy sức cho ngày mai.

Nông Tài đứng dậy đi xuống căng-tin ở toa cuối cùng đoàn tầu mua về hai ổ bánh mì to tướng rắc muối

tiêu và hai bi-đông nước. Hai người lặng lẽ ăn, lặng lẽ uống nước rồi khoanh tay trước bụng, ngủ ngồi. Con tầu

dồi lắc cái đầu của họ như đùa rỡn một quả bóng. Nhưng dẫu sao, sau một hồi chập chờn họ cũng ngủ được

một giấc thật sâu cho đến khi tiếng loa phóng thanh oang oang báo tin:

- Tàu đã đến sân ga Vinh.. Xin đồng bào kiểm tra lại hành lý.

An mở choàng mắt. Tàu chạy chầm chậm trước khi dừng lại hẳn. Ánh đèn lờ mờ đỏ quạch rọi trên đầu

một đám đông nhốn nháo, đang chen nhau tìm kiếm hành lý trên các giá chứa đồ. Hai người ngồi im bởi họ chỉ

có vẻn vẹn chiếc túi dết một quai trong đó chứa tất cả những vật dụng cần thiết cho một cuộc chạy trốn. Họ

xuống sân ga khi trời mù sương. Mới bốn giờ sáng. Những cỗ xe ngựa sắp hàng dài ngoài cửa sân ga còn các

chủ xe ngồi uống trà hoặc rượu xuông trong dãy quán bán đồ ăn dọc phố. Ở đây, chính khách phải đi tìm chủ

xe để thương lượng giá cả. Người đi lại đông, xe ngựa không đủ chuyên chở. Còn chờ xe ca của nhà nước thì

phải xếp hàng ít nhất mười tiếng mới có thể mua được một tấm vé. An bảo :

- Chúng ta phải nhanh chân lên.

Anh dẫn Nông Tài dạo một lượt đoạn nhìn vào một ông chủ xe dáng điệu ngang tàng với hàng râu ghi-

đông vểnh :

- Chào bác. Chúng tôi có nhiệm vụ đặc biệt trên biên giới. Liệu bác có thể giúp hai anh em tôi được

chăng ?

- Các anh là ai chứ ?

- Chúng tôi là công an nhân dân và sĩ quan quân đội. Đây là chứng minh thư của hai anh em tôi.

- Công an nhân dân cũng như sĩ quan quân đội được ưu tiên đi xe nhà nước. Ba ngày một lượt có chuyến

xe lên cửa khẩu. Các đồng chí thuê quán trọ rồi báo công an địa phương sắp xếp. Sáng ngày kia khắc

có chuyến.

- Nhiệm vụ của chúng tôi khẩn cấp. Chúng tôi không thể chờ được.

- Nhưng các đồng chí cũng không thể thuê xe ngựa của chúng tôi . Ngựa chạy đường núi giá đắt lắm. Ở

đây thông thường chúng tôi chỉ chở khách về các thị trấn quanh Vinh mà thôi.

- Đắt mấy chúng tôi cũng chịu. Rồi cơ quan sẽ thanh toán lại.

Chủ xe đưa mắt nhìn họ ngờ vực :

- Một chuyến xe này thông thường chở tám khách.

An cướp lời :

- Chúng tôi trả đủ tám xuất vé và thêm cả tiền hành lý của tám người. Hy vọng bác ưng thuận.

- Được rồi.... Để tôi xem.

Ông râu vểnh ậm ừ.

An nói tiếp :

- Và chúng tôi trả thêm tiền bồi dưỡng ngựa chạy đường xấu. Nếu cần đổi ngựa dọc đường chúng tôi

cũng sẵn sàng bao. Miễn sao tranh thủ được thời gian để hoàn thành trách nhiệm vụ đã được giao phó.

- Được.

Tới đó, người chủ xe đứng lên, với vẻ nhanh nhẹn bất ngờ. Ông ta rút trong túi ra vài đồng xu lẻ trả cô

bán nước chè rồi dẫn hai người ra xe. An rút tiền trong túi ra đếm rồi tức khắc đưa hai phần ba tổng số tiền sẽ

phải thanh toán cho chủ xe, đoạn nói thêm :

- Còn lại, tôi sẽ trả bác ngay khi nhìn thấy đồn biên phòng hiện lên trước tầm mắt.

- Đồng chí là người rất hào phóng.Vì thế trời đã đưa đường dẫn lối cho đồng chí đến gặp tôi. Nói một

cách sòng phẳng, con ngựa của tôi là số một trong đám ngựa chạy xe ở thành phố này. Ngoài nó,

chẳng có con nào dám ngược đường lên biên giới... Bởi tôi là người duy nhất cho ngựa ăn ngô trộn

mật. Những người khác chỉ cho ngựa ăn cỏ quanh năm.

Ông ta dẫn giải với vẻ đầy kiêu hãnh. Rồi khi đã cẩn thận cho tiền vào túi áo, cẩn thận cài khuy nắp túi,

ông ta thượng lên ghế xà-ích, ra roi. Cỗ xe quay chiều ngược đường lên phía tây.

Sau một lát lắng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp nện trên đường phố, An thò cổ ra quan sát :

- Vinh không lớn hơn thị trấn Thất Khê là bao. Nhưng kiểu nhà ở đây hơi khác. Vì sao đâu đâu cũng

nhìn thấy những thùng tô-nô sơn đỏ thế kia ?

- Các đồng chí mới lần đầu đặt chân đến đây, đúng không ?

Người xà-ích quay lại hỏi.

-

Au Zénith - Dương Thu Hương - 246


Vâng. Quả tình như vậy.

An đáp. Người xà-ích giơ roi chỉ về những giải núi chập trùng nơi chân trời phía trước và nói :

- Phía tây là nơi gió Lào thổi tới. Xứ chúng tôi hứng gió Lào, thứ gió thổi đến đâu cây cối quắt queo tới

đấy. Chẳng những cây cối ngoài vườn mà ngay đến đồ đạc như giường tủ bàn ghế hay các thứ vật dụng

khác trong nhà cũng đều khô cong khô nỏ và biến thành thứ củi bắt lửa nhanh nhậy. Vì lẽ đó chống

hoả hoạn là công việc của toàn dân. Những chiếc thùng tô-nô sơn đỏ kia do chính quyền phân phát cho

các nhà để dự trữ nước. Ai lười biếng để thùng vơi nước sẽ bị láng giềng tố cáo và phải chịu cảnh cáo

hoặc kỉ luật.

- Đội cứu hoả của thành phố ăn lương nhà nước để làm việc đó. Cớ sao buộc mọi nhà dân ?

- Đội cứu hoả ở đây biên chế nhiều gấp ba lần các thành phố khác. Nhưng cho dù có đông gấp hai mươi

lần họ cũng chẳng thể chống nổi hoả hoạn trong cơn gió Lào. Gió Lào, còn gọi là gió lửa, chính nó gây

nên các vụ cháy chứ chẳng cần thêm vào sự sơ xuất của con người.

- Vậy sao ! Thật đáng sợ.

An đáp, trong khi những ý nghĩ khác chạy thoăn thoắt trong óc não anh :

― Gió Lào! Hung hiểm thay. Vậy mà chúng ta đang tiến về hang ổ cái lò lửa đó. Chẳng có thứ thiên tai

nào hung hiểm hơn thứ tai hoạ gây nên bởi con người. Chẳng có thiên nhiên nào tàn độc hơn thứ tàn độc của

con người đối xử với nhau. ‖

Đoạn, anh quay sang bảo Nông Tài :

- Nghe bác xà-ích nói gì chưa ? Từ hôm nay sẽ phải hành quân trong thứ gió Lào bỏng rát đó. Bây giờ

ngủ đi mà lấy sức.

- Đường lắc như xóc đĩa, ngủ làm sao ?

- Vậy thì nhắm mắt lại.

Người lái xe quay lại góp lời :

- Đúng đấy, nhắm mắt được phút nào hay phút ấy. Chỉ lát nữa, mặt trời lên, mắt sẽ chói như bị kim đâm.

Khách từ phía Bắc vào đây đều kêu trời thứ nắng bỏng của Nghệ An.

- Quê hương chủ tịch họ Chí !

- Đích xác là như vậy.

Ông chủ xe râu vểnh đáp và cất tiếng ngâm : « Đất nghèo sinh bậc anh hùng... »

- Bác ngâm thơ hay thật.

An gật gù tán thưởng khi thâm tâm anh cất tiếng cười khinh bỉ :

« Ồ, ông ta đúng là một bậc anh hùng. Nhưng ông ta cũng lại chính là kẻ hèn nhát nhất trên cõi đất này,

một người chồng không bảo vệ nổi vợ, một người cha không che chở nổi những đứa con. »

-

Bên ngoài, nhà cửa đã thưa vắng. Ngoảnh lại nhìn, thành phố Vinh chỉ còn là một khối hỗn độn với dăm

ba ống khói đang nhả lên trời thứ khói đen nhờ bẩn thỉu.

An hỏi người xà-ích :

- Liệu chúng ta có đến được biên giới trước lúc tối trời ?...

- Tuỳ. Tuỳ theo chân ngựa chạy. Tuỳ theo trời nắng hay mưa. Bởi mùa này khí hậu thất thường như trở

bàn tay, có khi đang nắng đẹp trời xanh lồng lộng bỗng nhiên mưa giông gió giật ầm ầm kéo đến. Nha

khí tượng chưa bao giờ dự đoán chính xác những cơn bão miền Trung. Nhưng nếu chúng ta gặp may,

ngựa không giở chứng giữa đường, ta sẽ đến cửa đồn biên phòng khi mặt trời còn đứng cao hơn một

con sào trên đỉnh núi.

- Tức là khoảng bốn giờ chiều ? Ý bác muốn nói vậy ?

- Tôi không hay xem giờ. Nghề đánh xe buộc chúng tôi suốt ngày đêm rong ruổi trên đường, sớm hay

muộn cũng vậy. Nhưng tôi nhớ là thường thường, khi xe đến đây, mặt trời còn đứng cao hơn ngọn

núi phía tây chừng một con sào.

- Sớm chút nào hay chút ấy. Qua biên giới, chúng tôi còn phải đi bộ một thôi đường khá xa.

- Ô....

Người chủ xe cất tiếng kêu, chẳng ra ngạc nhiên cũng không ra hứa hẹn. Rồi ông ta thủng thẳng buông

tiếng :

- Để rồi xem.

An nhìn những giải đồi cằn cỗi phía trước, nơi bắt buộc họ phải vượt qua trước khi tới miền biên giới :

Chúng mênh mông trống vắng, dường như có thể phóng tầm mắt đến hút tận chân trời. Không một cụm rừng,

cũng chẳng một ngọn núi. Chỉ triền miên những giải đồi trơ trụi trên đó mọc thuần một loài gai thấp lè tè không

quá sải tay và các loại dương xỉ. Nếu bị rượt đuổi ở nơi này, cái chết sẽ cầm chắc.

« Liệu hôm nay các đồn biên phòng Thất Khê đã nhận lệnh truy nã hay chưa ? » .

An thầm nghĩ và hình dung cảnh tượng sẽ diễn ra sau lưng họ. Trước hết đơn vị anh và đơn vị của Nông

Tài sẽ báo cáo sự mất tích của hai gã « dân tộc thiểu số ». Phaỉ hai mươi bốn giờ sau mới có thể ra lệnh truy nã

Au Zénith - Dương Thu Hương - 247


theo thông lệ nhưng trường hợp này gã bộ trưởng Quốc Tuỳ ắt phải quyết định sớm hơn. Trên các chuyến tàu

ngược Lạng Sơn và Lao cai lính sẽ giăng hàng khám xét để bắt hai kẻ « đào ngũ » Liệu chúng sẽ gán cho họ

những tội danh nào để hợp lý hoá việc ban bố lệnh « truy nã tội phạm » ? Nếu không cướp của giết người ắt chỉ

còn là tội làm gián điệp cho ngoại bang. Và đó là tội danh tiện lợi nhất để kích động lòng căm thù cũng như sự

khinh bỉ của dân chúng :

« Ta tin chắc rằng giờ đây chúng ta đã trở thành những tên gián điệp nguy hiểm, âm mưu lật đổ nhà nước

vì nhận tiền viện trợ của ngoại bang. Sẽ không có một cách giải thích nào khác. »

An thầm nghĩ với nỗi buồn chua chát vì nhớ lại bao nhiêu lần từng đứng dưới cờ tuyên thệ trung thành

chiến đấu cho tổ quốc, thề tiêu diệt đến kẻ thù cuối cùng dám xâm phạm vào nền chuyên chính vô sản của

nhân dân. Giờ đây, anh đã trở thành thứ kẻ thù ấy, chính anh và gã Nông Tài ngồi một bên đang lơ láo đưa mắt

nhìn cảnh vật. Cuộc sống quả là trò lường gạt khủng khiếp mà biết bao nhiêu triệu con người chỉ là đám đông

khờ khạo bị xỏ mũi dắt đi như một đàn trâu.

« Nhưng còn hai người đàn bà, chúng sẽ làm gì họ ? »

« Chúng sẽ không làm gì hết bởi họ đã là hai tù nhân trong căn gác ấy, và họ không có cách nào chống

lại chúng. Nhưng hai gã cận vệ kia ắt sẽ bị gọi lên răn đe phải khâu mồm câm họng.

Hai kẻ khốn khổ đó có đủ liều mạng để trốn đi hay chăng ?...

Không ! Dù có bạo gan họ cũng không còn cơ may để làm điều đó. Sau cuộc bỏ trốn của Nông Tài, họ sẽ

thường xuyên sống dưới sự kiểm soát của đồng đội. Họ sẽ phải ngậm đắng nuốt cay giả câm giả điếc, giống

như thứ xác chết biết đi hay hình nhân bằng gỗ đứng trong cái hành lang dài dặc và thiếu ánh mặt trời kia.

Gã bộ trưởng dâm đãng sẽ không thay đổi lính gác trong thời gian tới. Một tuần, hai tuần hoặc ba tuần ?

Tất cả tuỳ thuộc vào cơn dâm dục của y. Khi đã no nê thú tính, hai người đàn bà cùng hai người cận vệ kia sẽ

cùng một lượt xuống mồ. Hai gã lính ấy, chắc chắn cũng như anh đã từng giơ nắm tay hàng ngàn lượt dưới

quốc kì thề tiêu diệt kẻ thù của nhân dân và bảo vệ tổ quốc ! »

Tại sao anh cười ? Anh cười gì vậy ?

Nông Tài bất chợt cất tiếng hỏi khiến An giật bắn mình. Anh vội đáp :

- Nhớ ra một chuyện tiếu lâm.

- Vậy thì kể đi cho đỡ buồn.

- Không kể được. Bậy bạ lắm.

Nông Tài lặng im với vẻ bất mãn.

An chợt nhận ra rằng anh đã có thói cười gằn khi những nỗi đau băm chém con tim. Cái thói quen lạ lùng

này vừa mới hình thành đã trở nên thuần thục như vốn nó gắn liền với anh từ muôn thuở.

― Gã trai của bản Xíu năm xưa đã chết hẳn rồi, ta chẳng còn nhìn thấy nó.‖

Anh thầm nghĩ. Nhưng lát sau, một câu hỏi não lòng lại vang lên bên tai :

― Nhưng còn hai đứa trẻ ? Liệu lũ chó đểu kia sẽ làm gì chúng ? ‖

Anh hình dung đôi mắt đen như hạt nhãn của con bé Mùi, hơi thở thơm tho của nó khi nó thỏ thẻ bên tai

anh, cái cảm giác mềm mại khi những sợi tóc của nó cọ vào bên má, một thứ tình ngọt ngào êm ấm dâng lên

mỗi khi con bé đặt hai bàn tay bé xíu của nó vào bàn tay rộng lớn của anh. Đôi bàn tay người thợ săn. Nghĩ tới

đó, An lại thấy một lưỡi dao quắm bén nhọn đang thọc ngoáy tim mình. Máu chảy ròng ròng từ những vết

thương ấy :

― Không!Ta không thể nghĩ đến những điều ấy nữa. Coi như phía sau

lưng ta chỉ là một nấm mồ lặng câm và tăm tối. Không còn ai, không còn bản Xíu, không còn cả chú thím

ta và ông bố vợ. Tất cả đều bị xoá đi trên mặt đất này. Ta sẽ là kẻ cuối cùng. Kẻ cuối cùng buộc phải sống để

tố cáo lũ đao phủ người Kinh. Ta phải làm được điều đó bằng mọi giá. ‖

-

Đột nhiên, An cảm thấy mệt mỏi. Anh bảo Nông Tài :

- Nằm xuống đi. Tôi đau lưng lắm. Mỗi băng ghế đủ cho bốn người ngồi nên ta có thể nằm duỗi chân

cho thoải mái. Đừng quên rằng qua đồn biên phòng chẳng còn xe ngựa cũng chẳng có xe trâu. Chỉ có

hai bàn chân thôi. Đường xa dốc ngược. Chẳng dễ đâu.

- Đồng ý.

Gã trai đáp ngoan ngoãn và chuyển sang bên chiếc ghế băng đối diện. Người xà-ích quay lại bảo :

- Các đồng chí cứ nghỉ ngơi. Đến nơi, tôi khắc gọi.

An nhắc lại :

- Khi nhìn thấy đồn biên phòng tôi sẽ trả nốt tiền cho bác. Nếu ngựa chạy tốt, đến sớm hơn lệ thường

chúng tôi sẽ gửi thêm tiền để bác mua ngô mua mật bồi dưỡng cho nó.

- Được thôi.

Au Zénith - Dương Thu Hương - 248


Người chủ xe vui vẻ đáp đoạn cất tiếng hát một điệu hát cổ mà An chưa từng nghe. Giọng ông ta khá ấm,

vang rất to giữa miền đồi hoang. Chắc hẳn thời trai trẻ ông ta phải là một ca sĩ nơi thôn xóm, cũng như những

tài tử thổi tiêu thổi sáo thâu đêm trên bản Xíu quê anh. An nằm xuống ghế, lắng nghe câu hát một cách chăm

chú. Câu hát xứ này trộn lẫn một cách ngô nghê ý thơ lẫn những câu nói dung tục, tầm thường :

― ...Này, cô nàng ở bên kia sông ,

Cô nàng áo thắm, cô nàng quấn khăn hồng,

Có chồng rồi hay còn chờ đợi người tới gọi,

Dẫu có chồng mà chồng đi vắng thì lội sang với anh,

Nơi đây vắng vẻ đìu hiu chẳng ai nhìn thấy,

Ngại ngần chi, cuộc sống ngắn chẳng tầy gang,

Hãy lội sang đây, cô nàng xinh đẹp,

Giải áo phất phơ của em bay khiến tim anh bồn chồn nóng cháy

Anh như bước đi trên lửa, như đang ngồi trên than.... ‖

Bước chạy của con ngựa đường trường gieo một thứ điệp khúc buồn tẻ, hoà cùng tiếng hát rền rĩ tiếc

thương của người xà-ích nhiễm đầy đầu óc lẫn con tim An . Dần dà, giấc ngủ đến, cuốn anh vào những làn

sóng đen ngòm của nó.

***

- Dậy thôi. Đồn biên phòng kia rồi.

Tiếng hô của người chủ xe khiến cả hai người đều bật dậy.

- Ối cha, chói mắt quá....

Nông Tài vừa lật chiếc mũ úp trên mặt đã kêu váng lên.

Không kêu nhưng An phải vội vàng nhắm ngay mắt lại vì thứ ánh sáng chói chang như muôn ngàn chiếc

kim đâm làm họ chảy nước mắt tức thì.

Sau một hồi nhắm mắt, úp trở lại chiếc mũ lên mặt cho quen dần với thứ ánh sáng gay gắt này, An mới

dám mở mắt ra. Người chủ xe nói :

- Tôi đã nói trước mà. Người nào từ xứ Bắc vào cũng la ó hoảng hồn vì nắng Nghệ An. Đó còn là may

mắn vì hôm nay không có gió Lào.

- Nếu có gió Lào nữa thì sao ?

- Các đồng chí sắp sang bên đó. Không cần tò mò ngày mai khắc biết.

- Đồn biên phòng đâu ?

- Nhìn thấy chưa ? Cái đốm đỏ cao nhất, đó là nơi cắm cờ của đồn lính. Thời trước là cờ Pháp. Sau

ngày cách mạng là cờ đỏ sao vàng.

An rút tiền đếm rồi đưa cho người chủ xe :

- Bác cầm lấy. Chắc dư tiền mua mật và thóc cho chú ngựa.

Người xà-ích bỏ tiền vào túi rồi cúi xuống gầm xe lôi lên hai bó lá chuối khô :

- Đồng chí hào phóng quá, tôi cũng phải biết phận sự của mình. Người ta bảo : có đi có lại mới toại

lòng nhau. Đây là hai cân đường phèn hảo hạng. Các đồng chí có thể ngậm khi đi rừng cho đỡ khát.

Nếu muốn may mắn vượt qua đồn biên phòng thì có thể tặng lính một nửa. Trên đó họ buồn nên hễ cứ

có người là họ tìm đủ cách vặn vẹo giấy tờ để chuyện vãn cho vui.

- Có cái lệ đó hay sao ?

- Chẳng có lệ nào cả nhưng ở đó họ buồn....Thi thoảng lắm mới có một chuyến xe ngựa ngược lên đây.

Còn lại là xe quân đội. Xe khách chẳng qua lối này. Nếu đồng chí bị nhốt ở đồn biên phòng ấy quanh

năm đồng chí cũng sẽ làm như họ thôi.

Au Zénith - Dương Thu Hương - 249


- Cảm ơn bác.

An nói và đưa gói đường phèn lên ngửi. Quả là thơm. Anh bảo :

- Cũng phải tặng họ một nửa thôi. Chúng tôi cần phải đi khi còn ánh mặt trời.

- Nếu không có đường phèn ắt hai đồng chí phải ngủ đêm ở đó sáng mai mới lên đường được. Đa phần

lính là dân Bắc. Họ phải lục hỏi đủ thứ chuyện ngoài quê hương.

An lặng thinh. Nhưng Nông Tài chăm chú nhìn một hồi rồi quay lại bảo anh, giọng hốt hoảng :

- Anh Thành, họ đứng dàn hàng đón đường chúng ta trên đỉnh đồi.

Anh đưa mắt nhìn lên thấy ngọn cờ đỏ đã hiện rõ. Đúng là lính đứng giăng thành hàng chắn ngang

đường. Vẻ như một cuộc vây ráp đã chuẩn bị sẵn. Bất giác An đưa tay rờ khẩu súng bên hông. Cùng một lúc,

Nông Tài cũng làm cử chỉ đó. Hai người đưa mắt nhìn nhau. Rồi An trấn tĩnh lại và hạ giọng thản nhiên hỏi

người xà-ích :

- Vì cớ gì họ đứng thành hàng như thế kia ?

- Vì buồn.

Ông ta đáp gọn lỏn, tay không ngừng ra roi trên lưng ngựa. Xe đang lên dốc và con ngựa có vẻ như bắt

đầu chùng chân.

- Hây ,hây... Dấn lên! Con mẹ mày, sắp tới nơi rồi đừng giở chứng. Cố lên, lát nữa ông sẽ cho ba đấu

thóc trộn mật. Cố lên, chỉ còn đoạn này nữa thôi.

Ông ta mắng con vật. Dường như con vật khôn ngoan này hiểu được ý chủ nên nó lại lên vó. Chiếc xe

chồm lên rồi tiếp tục chạy bon bon. Lúc ấy, người xà-ích quay lại :

- Tôi đã bảo rằng bất cứ ai ở tình thế của họ cũng sẽ làm thế thôi. Họ ra đây để nhìn xe ngựa. Lát nữa họ

sẽ nhìn các đồng chí rồi tranh thủ chuyện vãn. Mong sao họ sẽ để cho các đồng chí đi một cách sớm

sủa.

- A...Ra thế.

An cất tiếng, rời tay khỏi vũ khí. Anh trù tính cách thức có thể vượt qua cửa ải này một cách mau lẹ và an

toàn.

― May sao chúng ta là dân Tày. Chúng ta chẳng biết gì nhiều mà chuyện vãn với đám lính Kinh. Mà giờ

đây , cũng chẳng còn chút cảm tình cỏn con nào để nói những chuyện vớ vẩn. ‖

Nghĩ một lát, anh nói :

- Bác thật là người tốt bụng. Bác có thể đứng chuyện vãn với họ một lát để họ buông chúng tôi đi sớm

hay không ? Đường rừng ban đêm không dễ dàng mà ngủ lại thì lỡ nhiệm vụ. Chúng tôi có thể biếu

thêm tiền bác.

-Không phải mua tôi bằng tiền.

Người xà-ích đáp cộc lốc :

- Tôi chỉ lấy đầy đủ phần quyền lợi của tôi cũng như của con ngựa thôi. Nếu tôi tham quá ắt trời giáng

hoạ. Nhưng tôi hứa là giúp các đồng chí. Tôi sẽ ngồi tán chuyện với họ ở đó chừng nửa giờ. Mặt trời

còn đứng trên đỉnh núi một con sào rưỡi.

Chừng mươi phút sau họ lên tới đỉnh đồi. Đám lính không chậm một giây, quây lấy chiếc xe ngựa, mặt

anh nào anh nấy tí tởn như bắt được quà :

- Chào các đồng chí.

Người xà- ích cất tiếng oang oang:

Lính tranh nhau đáp :

- Chào bác. Lâu lắm mới thấy xe ngựa leo lên đây.

- Ồ; ngựa lên đây một lần về phải bồi dưỡng cả tháng. Chỉ có những dịp đặc biệt tôi mới ra roi. Hôm

nay, tôi chở hai đồng chí quân nhân làm nhiệm vụ đặc biệt.

- Nhiệm vụ nào thì cũng xuống đây chuyện trò cái đã.

An và Nông Tài nhẩy xuống, rút chứng minh thư xuất trình. Nhưng một anh chàng túm cả hai tấm thẻ cho

vào túi áo mà chẳng thèm đưa mắt liếc qua. Rồi, anh khác, đeo lon thượng uý bảo :

- Mời các đồng chí vào đồn chơi.

Nói xong, cả bọn kéo nhau đi trước, An và Nông Tài buộc phải lẽo đẽo theo. Chừng như nhìn thấy vẻ lo

âu trên mặt họ, người chủ xe lên tiếng :

- Các đồng chí cứ vào nghỉ chân uống nước. Tôi cho ngựa ăn rồi lên ngay. Nhớ đem theo gói đường

phèn chưa ?

- Tôi cầm theo đây rồi.

An đáp.

Đồn biên phòng xây trên đỉnh đèo, ba toà nhà hình chữ môn như kiểu nhà người Việt ở đồng bằng với

mảnh sân ở giữa lát đá hộc. Cây cột cờ trồng ngay phía trước toà nhà chính, thân gỗ đã mốc từng đám và trắng

phếch màu thời gian. Đầu hồi toà nhà chính giáp một lô-cốt nhỏ bằng xi-măng, chắc chắn xây từ thời Pháp

thuộc. Kề đó, một trạm kiểm soát bằng gỗ. Phía sau lưng toà nhà bên trái, tụt xuống sườn đồi chừng dăm chục

thước là tàu ngựa có chừng hơn chục con đang đứng nhai cỏ. Tầu ngựa này có ba lần rào thép gai bảo vệ vì ở

đây, ngựa là phương tiện giao thông chính của lính biên phòng:

Au Zénith - Dương Thu Hương - 250


― Ngày mai, chính lũ ngựa kia sẽ rượt đuổi chúng ta. Rồi xem ta có thoát nổi hay không. Nhưng trường

hợp rủi ro, ít nhất ta cũng phải cho nửa tá bọn bay xuống âm phủ trước khi ta nhắm mắt.‖

Anh trù liệu trong khi quan sát cảnh vật. Rồi họ bước vào gian nhà chính, rộng thênh thang với chiếc bàn

lớn như bàn bóng ping-pông kê giữa, trên đó ngổn ngang nào ấm nước, nào báo chí vừa mới vừa cũ, nào ra-đi-

ô, nào bao thuốc, dao găm, dao nhíp, mũ vải, đèn pin...Bốn bức tường xung quanh dán la liệt các tấm ảnh cắt từ

hoạ báo ra, thuần là các cô nàng xinh đẹp trong các đoàn văn công và các nhà hát, nào là Thị Mầu lên chùa, nào

là Xuý Vân giả dại, nào là đám múa Hoa đăng hay đội múa Hoa thơm bướm lượn...tất cả chen chúc nhau lộn

xộn chẳng ra hàng lối chi. Tay thượng uý, ắt hẳn là trưởng đồn, ném một cái lệnh giữa khoảng không :

- Cậu nào đi đun nước pha ấm chè mới.

Một tiếng đáp từ ngoài sân tức khắc vọng lại :

- Báo cáo thủ trưởng, tổ anh nuôi nhen lửa rồi...

― Mình sẽ chết tắc ở đây với bọn chúng....Phải tìm cách thoát thôi...‖

An thầm nghĩ và lên tiếng :

- Báo cáo đồng chí....

- Được rồi. Uống nước xong báo cáo cũng chưa muộn. Chúng ta đều là lính cả. Đồng chí bộ binh, tôi

biên phòng. Cùng dân phải thức dậy khi nghe kèn tò tí te buổi sáng. Mấy khi gặp nhau. Đồng chí có đi

bây giờ cũng không kịp. Nhìn mặt trời thế thôi nhưng tối nhanh lắm. Vùng này ban ngày nắng chói

mắt ban đêm sương núi dày như bông.

An cảm thấy như gần tắc thở. Thứ ― tình ái ‖ lính này quả thật nguy hiểm cho anh. May sao lúc đó, người

xà-ích đã quay trở lại. Ông ta vừa thong thả bước vào nhà vừa cất giọng ngâm nga cái bài hát ghẹo gái lẳng lơ

hồi nãy :

― ....Dẫu có chồng mà chồng đi vắng thì lội sang với anh,

Ở đây vắng vẻ đìu hiu chẳng ai nhìn thấy ....‖

Tay thượng uý quay sang người xà-ích, ngoác mồm cười :

- Sao bố già lại rủ vợ người ta sang với mình mà không sợ tội ?

- Tôi có rủ ai đâu ? Bài hát của các cụ từ thời xửa thời xưa đấy chứ ?

- Các cụ ngày xưa cũng bậy bạ ghê nhỉ ?

- Các cụ ấy cũng có cái lưỡi để uốn, hai con mắt liếc gái như chúng ta bây giờ thôi. Nhưng dẫu có muốn

phê bình hay kỉ luật thì họ cũng đã ngủ ngon dưới ba thước đất. Chẳng ai có thể túm gáy họ lên mà tra

khảo nữa.

Nói rồi ông ta đưa mắt nhìn An, vẻ như bảo anh yên tâm. Thấy thế, An cất tiếng hỏi :

- Bác đã cho ngựa ăn xong rồi hay sao ?

- Xong làm sao được. Nó tha hồ nhẩn nha. Còn đồng chí, đã xuất trình giấy tờ chưa ?

- Tôi đã đưa cả hai tấm thẻ quân nhân rồi nhưng lính của đồng chí thượng uý đây lại cất vào túi áo. Ồ, ra

thế.

―....Này cô nàng áo thắm, này cô quấn khăn hồng...‖

Ông ta hát tiếp một câu rồi quay sang tay thượng uý :

- Hai đồng chí này đang phải làm nhiệm vụ khẩn cấp không thể chờ xe ca quân đội. Thế nên công an

thành Vinh mới chỉ đến tôi. Chẳng có lời sức mấy tôi dám cho ngựa lên tận đây ? Hai người này

chẳng có thời gian uống chè với chúng ta đâu. Nhưng họ có đường phèn ngon lắm, trên xe họ cho tôi

vài miếng ngậm thử, thơm như phấn hoa vậy.

Quay sang An, ông hỏi :

- Đồng chí có thể tặng anh em trong đồn một ít được không ? Chúng tôi sẽ ngồi uống trà cho ngọt giọng.

An đặt gói đường lên mặt bàn, đáp :

- Có đây. Để làm quà cho các đồng chí.

Anh tủm tỉm cười nhìn tay thượng uý:

- Tôi trung uý, kém đồng chí một hàm. Đáng lẽ có thời gian ngồi tâm sự hẳn là vui. Nhưng rủi chúng tôi

đang phải làm nhiệm vụ khẩn cấp.

- Thế hả ?

Thượng uý thò cổ ra khỏi cửa, hỏi vọng đám lính đứng túm tụm ngoài sân :

- Cậu nào lúc nãy cầm chứng minh thư quân nhân của hai đồng chí ?

- Dạ em.

- Xem chưa ?

- Dạ, trung uý Chí văn Thành và thượng sĩ công an nhân dân Nông Tài. Hai đồng chí đều là dân tộc

Tày.

- Đem trả cho các đồng chí ấy. Thật đáng tiếc là họ phải làm nhiệm vụ khẩn cấp.

Cậu lính mang hai tấm thẻ trả cho họ.

Thượng uý trưởng đồn nói :

Au Zénith - Dương Thu Hương - 251


Thôi, lúc các đồng chí quay về sẽ gặp lại nhau. Tôi có đứa em trai họ lấy vợ người Tày, con bé xinh ơi

là xinh, da nó trắng nõn như bông, còn đẹp hơn da mấy bà vợ chuyên gia Liên-xô, Tiệp khắc. Nếu

kiếp sau còn có duyên gặp nhau tôi xin làm rể dân Tày. Chấp thuận chứ ?

- Cảm ơn.

An và Nông Tài chào khắp lượt đám lính rồi quay trở lại con lộ. Tiếng hát người xà-ích đuổi theo sau

lưng :

―... Giải áo phất phơ của em bay khiến tim anh bồn chồn, nóng cháy,

Anh như đang đi trên lửa như đang ngồi trên than...‖

An bảo :

- Nếu thoát được, chúng ta phải ngàn lần cảm ơn người chủ xe ngựa này.

- Đồng ý.

Ven đường, con ngựa đã ăn hết chậu thóc trộn mật đang đứng liếm mép một cách thoả mãn, giương mắt

nhìn hai vị khách. An bảo :

- Giờ thì co cẳng lên.

Hai người hướng về phía đất Lào, cắm đầu đi như chạy.

-

Họ đi như thế chừng một giờ liên tục, mồ hôi chảy đầm đìa khắp mặt và thấm đầy lưng áo. Mặt trời đã tụt

xuống một con sào, lơ lửng treo như trái cầu sáng chói trên đỉnh núi phía Tây. Nắng vẫn tràn ngập mênh mông

nhưng không khí đã nguội bớt. Vừa chậm bước chân một chút, An cảm thấy thấm lạnh hai vai. Phía sau lưng

họ, những giải đồi lúp xúp gai và dương xỉ chạy cho tới hút tầm mắt. Trước mặt, khoảng một thôi đường nữa là

tới rừng. Đường viền sẫm của nó đã hiện lên dọc theo những con đèo liên tiếp. Nông Tài kêu to :

- Rừng kia rồi. Chúng ta sống rồi.

- Xin quỷ thần hai vai phù trợ cho chúng ta. Nhưng phải đi nhanh lên. Sau lưng là khoảng trống, đường

quang. Nếu lũ ngựa biên phòng đuổi theo chắc không thoát.

- Đồng ý.

Nông Tài đáp và cả hai tiếp tục lao đầu cun cút chạy. Vừa chạy, họ vừa nhìn mặt trời, như nhìn thứ đồng

hồ báo giờ trong cuộc đua việt dã sinh tử. Cứ như thế, khi đặt chân vào cửa rừng cũng là lúc mặt trời vừa chạm

trên đỉnh núi cao nhất và ngự trị ở đó, kiêu hãnh trong sắc vàng lộng lẫy. An thấy thấm mệt, bước chậm lại.

Nhưng Nông Tài bảo :

- Chưa chậm chân được đâu. Khoảng rừng này thưa lắm, ngựa chạy tha hồ. Ta phải vào được đến lòng

rừng, lối đi vừa lọt bước chân mới mong thoát hiểm.

Nói rồi, cậu ta len lên đi trước anh, chừng như muốn khích lệ bạn đồng hành. Dẫu sao, đi dưới bóng cây,

tim họ đã bớt đi cơn phấp phỏng. Hai người vượt qua một cánh rừng dốc xuôi xuống trảng. Một trảng cỏ tí hon,

nói cho đúng là một rẻo chân núi phủ đầy thứ cỏ dài lông xám bạc. Qua đó chừng mươi phút, họ tới một cánh

rừng bằng phẳng hơn nhưng rậm rịt dây leo, lối đi chỉ vừa lọt một người. Nông Tài vừa thở vừa vuốt mồ hôi

mặt :

- Chưa hẳn là lòng rừng nhưng ngựa khó chui vào đường này vì thòng lọng bẫy.

- Ờ. May cho chúng ta thật.

An vừa nói vừa ngước nhìn những đám dây leo đong đưa trên đầu, những cánh tay tua tủa như tay bạch

tuộc của các vòi cây, trông xa giống hệt lũ rắn xanh đang ngóc đầu ngoe nguẩy. Dọc lối đi chăng đầy những

thứ dây leo lớn nhỏ, dài ngắn khác nhau nhưng đều tạo thành những nút thòng lọng mà bất cứ con ngựa nào

rúc vào rừng cũng vướng. Nếu là một đoàn ngựa thì lại càng khó khăn hơn. Ít nhất, cũng phải có một kẻ mở

đường dùng dao quắm phạt hết đám dây nhợ ngựa mới hòng nhích vó.

Nông Tài quay lại bảo anh:

- Rừng quê ta ít loại dây leo này.

- Ờ.. Nhưng nhiều cây lớn hơn đây.

- Dây leo ở đây nhiều màu lạ. Xem kìa, búi dây bên trái chúng ta có màu da cam. Còn đám dây quấn

ngang thân cổ thụ lại trổ đầy lá tím như cà dái dê vậy.

- Ờ. Đất khác, rừng khác, cây cũng phải khác...

An đáp, tiếp tục ngẩng lên nhìn những tua dây leo phất phới trong các kẽ nắng hiếm hoi của hoàng hôn.

Khi ánh nắng lướt qua, lớp lông tơ phủ lên chúng óng ánh như giấy thiếc. Nông Tài không nói gì thêm, lặng lẽ

bước. Đột nhiên, An nghe một tiếng ― Roạt‖, một tiếng động trầm đục nhưng rất nặng , kèm theo mùi hôi

khủng khiếp. Mùi hôi khủng khiếp ấy gợi lại màn đêm quen thuộc của những năm xưa trong các cánh rừng bản

Xíu. Óc anh vụt lóe lên tiếng kêu : Hổ!

Nhẩy ba bước, An vồ lấy thân cổ thụ gần nhất và leo lên với tất cả sức lực còn lại sau quãng đường chạy

bộ. Vượt qua ba đốt chẽ, nơi thân cây chia nhánh, anh leo tới đốt chẽ cuối cùng tiếp giáp với ngọn cây, yên trí

hoàn toàn rằng hổ không thể nào nhẩy lên được, An mới dừng lại. Tìm cành ngang lớn nhất, anh ngồi lên hai

Au Zénith - Dương Thu Hương - 252


chân quắp chặt lấy cành, hai tay ôm vòng quanh thân cây. Xong xuôi, anh mới dám cúi đầu nhìn xuống : Con

hổ đang đặt Nông Tài phía dưới hai chân trước của nó, ngửa cổ giương mắt nhìn anh. Bốn tia mắt giao nhau

ngay tức khắc. An lạnh toát sống lưng. Cặp mắt chúa rừng mở rộng, rọi thẳng vào anh những tia sáng màu

thép trộn lẫn màu vàng ốc. Cặp đồng tử co giãn nhè nhẹ, hai hàng ria cũng nhúc nhích rung rinh nhè nhẹ trong

cái nhìn chăm chú khó cắt nghĩa. An nghĩ :

― Nó biết còn con mồi thứ hai. Nó sẽ tiếp tục rình cho tới lúc mình tụt xuống. Giờ là lúc phải hết sức bình

tĩnh để vượt qua cơn nguy hiểm này.‖

Trước hết, anh cố trấn tĩnh cơn run rẩy để lục túi-dết lấy ra sợi dây dù vạn năng. Rồi anh tự trói mình vào

thân cây, biết đó là cách tốt nhất để bảo vệ mạng sống. Bởi đã từng có tấm gương của tiền nhân để răn dậy kẻ

đi sau. Thời chú anh còn trẻ có một số thợ săn hoặc kiếm sĩ sống bắng nghề bảo kê. Hoặc bảo vệ những nhân

vật con dòng cháu giống, lắm tiền nhiều của và cũng đầy rẫy kẻ thù. Hoặc bảo vệ những thương gia trên các

chặng đường vùng biên giới. Lần ấy, một người thợ săn tháp tùng một tay lái buôn thuốc phiện. Anh ta đi

trước, nhưng con hổ lại vồ người đi sau. Người thợ săn trèo lên cây tìm cách thoát thân, trong khi trèo hoảng

hốt đánh rơi khẩu súng. Không còn vũ khí, người thợ săn chẳng có cách nào hơn là bám chặt lấy cái cây như kẻ

chết đuối bám lấy chiếc bè hộ mạng. Rủi ro là anh ta đã gặp một con hổ thành tinh. Sau khi chén sạch con mồi

thứ nhất nó ngủ ngay dưới gốc cây chờ tiếp con mồi thứ hai. Trong trường hợp ấy, nếu đủ lòng can đảm và sự

tự tin, nạn nhân có thể lừa lúc con vật ngủ say nhất mà thoát thân. Nhưng người thợ săn này không đủ bản lĩnh

bước qua lưng thú dữ. Anh ta mắc cứng trên cây, suốt đêm gà gật trong nỗi hãi hùng và trong giá lạnh của khí

núi. Hôm sau, con hổ thức dậy, vươn vai duỗi chân để tìm lại khí thế sau giấc ngủ dài. Rồi nó chuẩn bị tấn

công con mồi mới. Lượn quanh gốc cây vài lượt, nó dừng lại giương mắt trừng trừng nhìn con người tội nghiệp

kia, đoạn buông tiếng gầm thét. Sau một hồi gầm thét, nó lại lượn vòng quanh gốc cây như một con chó lượn

quanh bãi nước đái của chính mình, đoạn nó lại tiếp tục uy hiếp nạn nhân bằng những tiếng gầm thét. Kẻ xấu số

không chịu nổi ánh mắt loài độc thú và tiếng gầm của nó, thêm nữa, sau một đêm mỏi nhừ vì sợ hãi, đói khát,

anh ta không còn đủ sức bám lấy cành cây nên rơi xuống, làm bữa ăn linh đình của ngày thứ hai cho chúa sơn

lâm.

Câu chuyện này phường thợ săn thường kể đi kể lại sau mỗi mùa săn chính, quanh bếp lửa và chảo nấu

cao. Từ thuở đi theo phường săn, An đã thuộc lòng. Giờ, nó giúp anh cẩn trọng. Quấn ba vòng dây dù để trói

thân mình vào thân cây, An kiểm tra kĩ các nút thắt, rồi cài lại nắp chiếc túi dết, chỉnh lại khẩu súng sau lưng

cho thuận tiện khi sử dụng. Đoạn, anh cúi xuống tham dự cuộc thôi miên với con thú. Nhưng, ngược với sự

phỏng đoán của anh, con hổ đã cúi xuống con mồi đặt sẵn dưới hai chân. Tội nghiệp Nông Tài, hẳn từ cú vồ

đầu tiên của dã thú, chàng trai đã chết, không kịp bật một tiếng kêu. Con hổ này đã quen ăn thịt người. Phải

quen vồ người từ lâu lắm, nó mới có thể quật chết họ mau lẹ như vậy....

Chắc chắn nó phải được liệt kê vào loại hổ thành tinh, loại độc thú đã thừa thãi kinh nghiệm để biết con

người là thứ mồi hảo hạng. Gặp nó, cửa địa ngục tự động mở ra.

― Từ đầu đến khấu đuôi nó phải dài đến thước tám.‖

An ước tính. Con hổ này chưa già vì lông còn vàng au và các vằn đen còn sắc nét như vẽ. Cứ nhìn cách

nó vần cái đầu của con mồi khắc biết nó khéo léo và nhanh nhẹn đến nhường nào. Một sức mạnh không thể

gìm nén khiến An không thể rời mắt nhìn con thú. Có thể là sự sợ hãi. Có thể là nỗi tò mò. Hoặc cả hai thứ

nhào trộn lại. Từ năm mười ba anh đã theo ông chú và phường săn bản Xíu lên rừng. Chú anh hạ thủ vô số gấu

ngựa, lợn lòi, hươu hoẵng và hơn một tá hổ. Nhưng với anh, sự hiện diện của loài thú này chỉ là hai ngọn lửa

xanh lè từ cặp mắt nó phóng ra khi bắt ánh đèn săn. Mùi hôi và gây đặc biệt không thể nhầm lẫn với mùi các

loài thú khác. Tiếng sột soạt của các đám lá cọ vào vai họ trong những đêm rừng ẩm lạnh. Và sương giá mịt

mùng trong những thời khắc đợi chờ. Người thợ săn không có quyền chậm trễ nửa giây, nếu họ muốn tồn taị.

Nhiều khi cuộc chờ đợi kéo dài từ chập tối đến quá nửa đêm, ai nấy gần như hoá đá vì rét lạnh. Nhưng vào thời

khắc con thú tiến đến, và khi cặp mắt nó hắt lên những tia phản chiếu sắc lạnh chính là lúc súng phải nổ ngay.

Đạn nhằm vào điểm giữa hai con mắt. Rồi sau đó, hoặc là con thú chết tại chỗ vì lượng đạn bắn đủ và trúng các

điểm dễ tổn thương, hoặc là phường săn phải theo đuổi con vật cho đến khi nó chết vì vết thương quá trầm

trọng, cuộc rình rập này có khi kéo đến ba bốn ngày...Cuối cùng, con vật được chở về bản, xẻ thịt, róc xương,

và những chiếc vạc lớn nấu cao được bắc lên bếp lửa.

Như thế đó, là thợ săn nhưng anh chưa từng nhìn thấy hổ sống, lại càng chưa hình dung tường tận cách nó

thịt con mồi. Chưa bao giờ.

― Đây chính là đầu tiên tao tận mắt thấy mày, hỡi chúa sơn lâm ‖

Anh thầm nghĩ.

Con vật đang đặt một chân lên cái đầu của Nông Tài, vần qua vần lại như trẻ con vần quả bóng. Rồi, đột

ngột, nó ngoác mồm ra đớp một nhát vào cổ nạn nhân. An nghe tiếng xương ròn răng rắc vụn giữa hai hàm

răng thú. Con vật táp rất nhanh miếng thứ hai. Cái đầu đứt lìa khỏi thân người lính. Con thú lấy chân hất nó ra

xa như ta ném một viên bi. An nhìn thấy cái đầu đỏ ngòm của người bạn đường lăn mấy vòng trước khi bắn

vào bụi cây gần đó. Anh dường như tắc thở, nỗi kinh hoàng khiến anh tê liệt chân tay. Một cơn băng giá từ từ

lan toả khắp toàn thân. Anh cảm thấy cơ bắp trở thành co cứng và bất động như gỗ đá.

Au Zénith - Dương Thu Hương - 253


― Nếu ta không kịp trói thân vào cây, ắt ta rơi xuống mà chết như người thợ săn xấu số ngày xưa mà

không cần phải đợi qua một đêm trên cây, cũng không cần bị nó gào thét để uy hiếp. ‖

Ý nghĩ đó thoáng qua óc anh như tia chớp. Đồng thời, một làn nước ấm nóng đâu đó tuôn chảy trên tấm

thân đông cứng và tê liệt vì kinh hoàng của anh. Phải một lúc sau, An mới biết rằng nước tiểu đã vọt ra mà anh

không hay biết. Nước tiểu chảy dọc theo hai đùi, thấm ướt hai ống quần, tiếp tục bò xuống hai bàn chân. Khi

gió thổi nguội đi chúng khiến anh càng lạnh.

Dưới kia, con hổ đã xé tan quần áo Nông Tài, bắt đầu bữa cỗ ngon lành của nó. An không dám mở mắt ra

nữa. Nỗi tò mò cũng đã tắt ngấm như ngọn lửa bị tưới nước. Cơn sợ hãi chưa qua nhưng nỗi đau kéo tới. Lúc

này anh mới hoàn toàn hiểu rằng người bạn đồng hành trong cuộc chạy trốn định mệnh này đã chết, chết một

cách thảm khốc ngay dưới mắt anh:

― Nông Tài ơi, chúng ta chạy trốn một cái chết để rồi cái chết khác lại chờ đón ở nơi đây. Vào lúc cậu

ngỡ là bước vào cửa sinh thì lại sa chân vào cửa tử. Hãy tha lỗi cho tôi vì tôi không đủ sức bảo vệ cậu. Hãy tha

lỗi cho tôi vì tôi không làm trọn phận sự kẻ đưa đường. Lẽ ra, tôi phải là người đi trước chứ không thể là cậu.

Nhưng số phận hay sự rủi ro xui khiến nên cậu phải thiệt thân. Từ nay, cái chết của cậu đè lên vai tôi, cùng với

những người ruột thịt. Từ nay, lòng oán hận của tôi dệt thêm một mạng sống giống như sợi dây thắt thêm một

nút để ghi nhớ mối thù này.‖

Anh thầm nói với người xấu số.

Một tình bạn ngắn ngủi kéo dài không quá hai ngày và một đêm. Nhưng vẫn là một tình bạn thật sự vì nó

lôi dẫn họ qua biên giới mong manh giữa cõi sinh và cõi tử; nếu đã một lần đi qua bờ vực này, cuộc gắn bó sẽ

kéo đến chung thân.

Những tia nắng rọi qua lá rừng không còn màu vàng nữa. Chúng nhạt màu chín của vỏ chanh. Điệu này

chẳng mấy chốc mà tối. Anh phải thoát khỏi cánh rừng này trước khi đêm sập xuống. An bắt đầu xoa hai bàn

tay thật mạnh cho máu lưu thông. Khi áp hai bàn tay lên má thấy hơi ấm trở lại bình thường anh mới gỡ khẩu

súng khỏi lưng, lên đạn. Mục tiêu thật gần nhưng không dễ vì con hổ đang cắm cúi ăn, cần cổ và đầu nó di

động liên tục. Chỉ có phần lưng và mông nó là chĩa thẳng về phía anh nhưng đấy lại là chính là những phần

không gây nguy hiểm cho con thú.

Chợt một con tính chạy qua óc não anh :

― Tại sao ta lại tiêu diệt nó? Nếu bọn lính biên phòng đuổi theo bắt gặp xác hổ, ắt chúng sẽ truy nã ta

sang tận đất Lào. Biên giới Lào-Việt chỉ vẽ trên bản đồ, không tồn tại trong thực tiễn. Đó là những gì ta đã biết

từ cuộc kháng chiến năm xưa. Giờ cũng vậy thôi. Thời gian chưa thay đổi tình thế. Tốt hơn cả là ta để con thú

thoát thân, và bày trò rằng chính ta cũng đã bị xé xác giữa hai hàm răng hổ. Đó chính là lối thoát chắc chắn

nhất trong hoàn cảnh này. ‖

Sự xác quyết đến mau lẹ. An nhắm vào phần mông gần nhất phô ra trước nòng súng, bóp cò. Đường bay

của viên đạn vô cùng chính xác.

Con vật gầm lên một tiếng khủng khiếp, quay ngoắt lại phía anh. Cặp mắt nó chiếu thẳng vào anh những

tia sáng hung cuồng. Nó buông con mồi quay lại lấy đà nhảy vọt lên. Cú nhảy ấy khiến hơi gió tạt vào mặt anh

mùi hôi sặc sụa. Nhưng An dự đoán chính xác, con thú không thể với tới nơi anh ngồi. Nó chỉ khiến tim anh gõ

trống và da anh sởn gai ốc. Viên đạn chỉ phá vào phần mềm trên mông con thú, cú nhảy của nó hoàn toàn bình

thường. Một cú nhảy dũng mãnh. Ngay trong trí tưởng tượng anh cũng không thể hình dung con vật có thể

nhảy cao được đến thế. Và động tác của nó chuẩn xác, nhẹ nhàng, mềm dẻo như động tác của một con mèo

đang độ trai tơ. Không vồ được mồi, cặp mắt con thú long lên ánh man dại xen lẫn đau đớn. Nó bước loạng

choạng quanh gốc cây vài bước đoạn lùi lại, gào lên tiếng thứ hai rồi vọt lên cú nhảy tiếp. Cây súng trong tay

anh rớt xuống mà anh không kịp nhoai theo. Khẩu tiểu liên rớt theo chiều dọc, va đập, tự nổ phát đạn nữa. Con

hổ quay ngoắt lại, nhảy bổ vào thứ kẻ thù có hình dạng lạ lùng đó, táp một miếng với tất cả sức lực và sự điên

cuồng vốn có. Rồi nó gầm lên một tiếng thê lương, có lẽ bởi thứ thép kia khiến hai hàm răng nó bị tổn thương

và cơn đau mới cộng với vết thương nơi mông khiến nó không chịu nổi. Ngẩng đầu lên nhìn cái con mồi nhỏ

bé trên cây với cái nhìn kinh ngạc, nó nhảy vọt vào bụi rậm và biến đi. An nhìn theo vết cây lá rùng rùng

chuyển động, biết rằng con thú đã đi thẳng. Chờ một lúc lâu để tin chắc con hổ không quay lại nữa anh mới

tháo sợi dây dù, nhét vào túi-dết rồi tụt xuống. Một thứ dính dáp làm anh vướng víu dưới mông. Lúc ấy, anh

chợt hiểu rằng cơn sợ hãi không chỉ khiến anh vọt nước tiểu mà còn tống cả phân ra ngoài ruột :

― À, người ta nói sợ vãi cứt chính là thế này đây ‖

Nhưng ý nghĩ đó biến đi nhanh chóng bởi anh không còn thời gian suy ngẫm. An cởi áo xé ra thành nhiều

mảnh, thấm vào đám máu bê bết dưới cái đầu lâu của Nông Tài, đoạn bưng chiếc đầu lâu đó thả vào một bụi

gai dày rậm mà chắc chắn không con chó săn, sói rừng hoặc lợn lòi nào rúc vào nổi. Rồi anh vứt chiếc áo tả tơi

đẫm máu của mình bên cái xác không đầu của người xấu số, giờ đây chỉ còn trơ trọi phần bụng và khung

xương. Đoạn, anh ném khẩu súng của mình xuống gần sát khẩu súng của người đồng hành. Nhìn cảnh tượng

ghê rợn đó lần cuối, anh quay lưng co cẳng chạy về phía trước, nơi văng vẳng tiếng chảy của một con suối. Đến

bờ suối, anh định bước xuống tắm thì một cơn buồn nôn trào thốc lên họng khiến anh không thể nào kìm giữ.

Cứ thế, những gì còn lại trong dạ dày anh vọt ra. Vọt ra cho đến những gợn chất lỏng màu xanh chen màu vàng

Au Zénith - Dương Thu Hương - 254


và sau đó là thứ nước đen đắng như mật cá. Anh phải quì gối chống hai tay xuống mặt đất để khỏi ngã gục vì

cơn nôn kì lạ. Nôn xong, ruột anh đau quặn từng hồi. Anh có cảm giác ruột anh đang bị cắt đứt bởi những lưỡi

dao vô hình. Anh định đứng lên cởi khuy quần nhưng cơn đau rút thân anh co rúm lại như một con tôm bị trụng

nước sôi. Anh đành lại quỳ gối xuống, cố gắng nín giữ để có thể lột chiếc quần ra. Những cơn đau nối tiếp

khiến anh không còn đủ sức để làm việc đó. Anh đành úp mặt xuống cỏ để lấy điểm tựa rồi buông thân nằm

nghiêng. Cũng lúc ấy những luồng phân phọt ra một cách đột ngột như một thứ nước chứa trong chai bất thình

lình bị rút nút. Anh hoàn toàn không còn điều khiển được cơ thể của mình. Anh nằm nghiêng như thế, chờ cho

cơn bệnh khủng khiếp đó đi qua. Khi không còn gì trong ruột, anh bắt đầu run lên vì rét. Một thứ gía lạnh từ

xương tuỷ toả ra, hoà với hơi lạnh của rừng chiều.

― Mình chưa thể tắm ngay. Mình sẽ chết vì cảm. Mình sẽ chết ngay trong dòng nước. ‖

Anh nghĩ. Với tay mở chiếc túi dết, anh kéo ra tấm chăn dù mà Nàng Đông đã kì công khâu từng mũi cho

anh từ những tấm dù chiến lợi phẩm trận Điện Biên. Tung tấm chăn ra, anh trùm kín toàn thân. Rồi nhắm mắt

thở từng hơi dài, anh chờ cơ thể ấm dần lại. Khoảng thời gian đó thật nặng nề. Anh có linh cảm lũ ngựa biên

phòng đang trên đường đuổi theo mình. Không nghe thấy một tiếng động nhỏ, nhưng chỉ là những hình ảnh

được mường tượng theo thuần tuý theo linh giác.

― Ta cần phải thoát thân. Ta phải sống bằng mọi giá.‖

Anh nghĩ. Ý nghĩ đó cứ lặp đi lặp lại không ngơi nghỉ giống như gió thổi liên hồi vào lò than. Cũng như

gió lùa vào lò than, nó hun nóng lại dần cơ thể băng giá và lả lướt của anh bằng thứ nghị lực của một kẻ cùng

đường, bằng ý chí sống của con thú bị dồn vào bẫy. Chừng hai mươi phút sau, An cảm thấy nhịp đập của con

tim trở lại bình thường. Lật tấm chăn, anh ngồi dậy, lội xuống suối tắm rửa, giặt bộ quần áo dơ gói vào tấm áo

mưa, nhét cẩn thận vào túi-dết. Đoạn, lội sang bờ suối bên kia anh mặc bộ đồ mới rồi tiếp tục chạy. Rừng bắt

đầu sẫm tối. Anh cố gắng chạy thêm chừng mươi phút nữa mới chịu lấy cây đèn pin ra dùng. Từ nay trở đi,

cuộc sống của anh chỉ còn cây rừng bảo trợ. Anh phải tiết kiệm từng giọt ánh sáng. Anh cũng phải tiết kiệm

từng mảnh bánh khô cho đến khi tìm được nơi ẩn nấp. Một cơn chóng mặt thoáng qua khiến anh phải dừng lại,

mở túi-dết, móc ra một cục đường phèn bỏ vào miệng. Vị ngọt thấm vào lưỡi khiến bước chân anh đỡ run rẩy.

Rồi lát sau, chất nước đường chảy xuống, làm hồi sinh cái dạ dầy trống rỗng và bị thương tổn của anh, khiến

những cơn chòng chành chao đảo mất dần đi và anh cảm thấy các động tác của mình trở nên chính xác. Cứ như

thế, An tiến sâu vào con đường tối đen mà anh ngỡ như đã đi được nhiều lắm. Nhưng nửa giờ sau, anh nghe

vẳng đến tiếng vó ngựa dập dồn, tiếng nói xen lẫn tiếng la hét. Tất thảy những thứ tiếng động ấy vang xa trong

vùng trời đen như mực vùng biên giới.

― Tại sao tiếng vó ngựa nghe gần đến thế ? Hay ta đã lạc đường và quay vòng trở lại ? Hoặc là chính con

đường chạy theo hình vòng thúng bởi khi ta vượt qua suối, rừng chẳng còn bằng phẳng mà đổ nghiêng như

sườn dốc. Rất có thể là lối mòn này dẫn ta quay lại cánh rừng kề cận nơi Nông Tài đã bị hổ ăn. ‖

Anh tắt đèn pin, chui vào một bụi rậm, hiểu rằng khi không thể xác định lối thoát thân thì tốt nhất là ngồi

yên một chỗ trong bóng tối. Như thế còn đỡ nguy hiểm hơn là gây nên tiếng sột soạt và rắc vào đường mòn

ánh sáng nhân tạo của cây đèn. Bọn lính biên phòng sẽ dễ dàng phân biệt được thứ ánh sáng này với các loại

lân tinh. Quả nhiên, tiếng vó ngựa mỗi lúc mỗi gần hơn và gió đưa đến tai anh tiếng chửi thề của đám lính:

- Từ từ đã. Thúc mẹ nó vào ngựa của tao rồi.

- Tối thế này tránh làm sao được ?

- Đằng nào cũng phải chờ chúng nó vạc đường mới tiến lên được. Mày đừng có thúc ngựa làm gì.

- Tao có thúc đâu. Tự nó chồm lên đấy chứ.

Một giọng can thiệp, chắc chắn của tay thượng uý trưởng đồn :

- Thôi đi các cậu. Chớ có cáu kỉnh với nhau. Lát nữa quay về, anh nuôi khắc có nồi cháo gà bồi dưỡng.

Bọn lính im. Và giọng tay thượng uý lại cất lên :

- Nhanh tay lên một chút. Chớ quên rằng bọn thổ mừ này thạo đường rừng gấp ngàn lần chúng ta. Bọn

họ sinh ra với rừng cây mà.

- Báo cáo thủ trưởng bọn em vẫn cố sức ra tay nhưng lắm dây nhợ quá. Đoạn đường này thật là chó đểu.

- Có chó đểu mới cần đến ngọn dao nhà nghề của cậu. Rán sức lên. Tôi cho rằng chúng ta sắp đến nơi.

Tài mấy chúng nó cũng không thể chạy nhanh hơn ngựa...

Những tiếng động chen lẫn tiếng hí của đàn ngựa vọng đến rõ mồn một. Lính tiên phong đang phạt dây

dọn đường cho ngựa tiến lên. Vậy là chúng đã nhận được lệnh đuổi bắt họ từ lúc tắt mặt trời. Nhưng đám

ngựa bị cản lại khi tiến vào rừng. Nếu lối mòn không chằng chịt những đám thòng lọng xanh, hẳn bọn lính đã

tóm gọn anh khi anh còn đang nằm trùm chăn bên bờ suối, trong cái tình trạng thê thảm nhục nhã chưa từng có

trong đời .

― Dẫu sao giờ đây ta cũng đã lấy lại được tư thế, và nếu có chạm trán nhau ta vẫn có thể tiêu diệt một

vài thằng trước khi chịu nhắm mắt xuôi tay. „

An nghĩ. Ý nghĩ đó giống như niềm an ủi. Một con côn trùng nào đó đốt vào gáy đau buốt khiến anh

xuýt bật tiếng kêu. Quài tay ra sau gáy, anh tóm được một con kiến độc to bằng hạt đậu đen, bóp chết nó tức

khắc nhưng con vật cũng kịp chích nọc vào đầu ngón trỏ của anh khiến ngón tay anh buốt nhói lên. Cũng lúc

đó, một tiếng thét vẳng đến :

Au Zénith - Dương Thu Hương - 255


- Hổ ! Hổ !

Một loạt đạn tới tấp và rối loạn cày lên tức khắc sau tiếng kêu kinh hoàng đó.

Anh cười thầm :

― Chúng mày có quá nhiều đạn để thị uy với chúa sơn lâm „

Khi loạt đạn dứt, anh nghe rõ tiếng tay thượng uý :

- Cậu nhìn thấy nó ở đâu ?

- Không. Báo cáo thủ trưởng tôi nhìn thấy đám xương lồng ngực bị gặm hết thịt ở ngay sát chân ngựa.

- Đâu ?

Chưa có tiếng trả lời, đã nghe tay trưởng đồn hét :

- Xuống ngựa đi. Đem đèn chạy ắc-quy lại gần đây.

Tiếng chân chạy, tiếng hò ngựa, tiếng roi vút đen đét. Rồi sau đó là sự im lặng. Có lẽ đám lính đang dò

dẫm xung quanh cái xác không đầu và đám xương của Nông Tài. Rồi giọng tay thượng uý vang lên, không còn

oang oang hùng hồn như thường lệ :

- Hai khẩu súng ? Con hổ này chén sạch cả hai thằng ?

- Vâng. Chắc nó phải lớn lắm.

- Chưa nghe ai nói hổ ăn thịt được một lần cả hai người.

- Báo cáo thủ trưởng, hổ chưa từng tạt chết một lần cả hai người vì khi nó vồ được con mồi thì những

người khác đã kịp chạy hoặc nổ súng. Nhưng nó cõng cả con bò chạy bay bay. Lần này, có lẽ hai thằng

thổ mừ tận số. Hoặc chúng nó ngồi nghỉ. Hoặc chúng nó đi cặp díp nhau. Tuy là dân miền núi nhưng

chúng nó chưa lường được những cánh rừng xứ này.

- Không tìm thấy đầu lâu.

- Hổ không bao giờ ăn đầu lâu. Chỉ có sói và lợn lòi. Loài sói không đứng ăn một chỗ mà thường tranh

cướp nhau và kéo mồi ra xa. Tôi cho rằng chính lũ sói kéo đi một cái xác và cả hai chiếc đầu lâu. Đàn

sói này phải đông lắm.

- Đúng rồi. Chỉ có sói bầy với lợn lòi mới có thể dọn sạch đi nhanh thế. Tôi chắc rằng loạt đạn chúng ta

bắn khi vào rừng đã đuổi chúng đi. Nhìn đám xương sườn kia cũng biết chúng phàm ăn đến nhường

nào.

Một khoảnh khắc im lặng nữa trôi qua. Rồi tiếng một cậu lính trẻ cất lên :

- Báo cáo thủ trưởng, chúng ta quay về thôi. Ở đây mùi máu tanh quá.

- Sợ hả ?

Tay thượng uý hỏi với giọng vừa thị uy vừa trịch thượng nhưng ngay sau đó anh ta quát :

- Cậu nào thu hai khẩu súng kia lại. Nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành mà không tốn một giọt máu.

Những tên phản bội tổ quốc, làm gián điệp cho ngoại bang đã bị thú dữ trừng trị thay vì toà án của

nhân dân.

An nghe tiếng ho sặc sụa của một cậu lính, chắc là kẻ không may mắn bị sai đi lượm hai cây súng bê bết

máu khô. Sau đó, tiếng giục giã lên ngựa, tiếng roi vút, tiếng xì xào và sau cùng, tiếng vó ngựa dồn dập, nhưng

lần này mỗi lúc mỗi nhỏ dần đi.

Chờ cho tiếng ngựa chạy gần như tắt hẳn trong không gian, An mới chui khỏi bụi rậm. Anh quỳ xuống,

thầm thì :

- Chúa sơn lâm ơi, mày đã cứu mạng ta.

***

*******

***

Từ năm đó, anh sống trong một bản Vân kiều heo hút, nơi chính người Lào cũng ít khi đặt chân tới. Hai

năm đầu trôi qua trong niềm tin đinh ninh rằng anh sẽ không bao giờ còn nhìn lại mảnh đất quê hương. Tổ quốc

của anh không còn là Việt nam bởi cái tên đó chỉ còn là niềm oán hận. Anh ngồi viết đi viết lại câu chuyện bi

thảm của gia đình mình bằng một mẩu bút chì, trên mặt sau của những tờ truyền đơn mà thi thoảng anh nhặt

được dưới chợ, một cái chợ nhỏ xíu trong một thị trấn Lào cũng nhỏ xíu và hẻo lánh, nơi chỉ có những người

lái buôn ít vốn liếng và dư thừa lòng can đảm tìm đến để mua các loài xạ hương, chồn trắng, trầm hương hay

khỉ vàng nuôi làm cảnh. Đến năm thứ ba, anh bắt đầu hiểu rằng anh phải quay về, anh cần phải quay về mảnh

Au Zénith - Dương Thu Hương - 256


đất thù nghịch đã từng là tổ quốc của anh. Anh phải quay về Hà nội, cái thành phố địa ngục mà anh ngỡ không

bao giờ còn nhìn thấy. Bởi lịch sử nào cũng phải chết trong lãng quên và câm lặng. Ở giữa vùng núi non mù

mịt này, giữa đám dân nói một thứ tiếng khác sống một nền văn hoá khác, dầu anh có viết cả ngàn trang giấy

cũng không ai thèm đọc , chẳng ai thèm biết tới và như thế, cuộc chạy trốn của anh là vô nghĩa. Anh kéo dài

cuộc sinh tồn này là để rửa hận nhưng sau cùng chính cuộc sinh tồn ấy dìm anh vào một đời sống tăm tối vô

dụng.

Vậy thì, anh ra đi để còn có ngày về. Anh phải về chính mảnh đất đã diễn ra tội ác, nơi linh hồn những

người ruột thịt chờ đợi anh...

Trước đây, để sống anh đã ra đi bằng mọi giá. Giờ đây, để trả thù anh cũng phải quay về bằng mọi cách.

Quay về ! Quay về ! Quay về !

Quyết định như vậy, nhưng anh phải chờ năm năm sau, An mới tìm được lối thoát. Đó là khi những tốp

lính Việt nam đầu tiên vượt Trường sơn để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh hoành tráng mà mục tiêu của nó là

giải phóng Sài-gòn và sau đó, kéo dài đường biên giới cho đến tận Xiêm rệp. Năm ấy là năm Quý Mão, mùa

xuân năm Quý Mão. Đến mùa thu, máy bay đối phương bắt đầu săn tìm quân tiên phong trên các cánh rừng dọc

Trường sơn. Bom bắt đầu dội xuống những khu rừng bị đánh dấu nghi hoặc trên bản đồ là có quân Bắc Việt

chui lủi hoạt động. Bởi nước Mỹ là kho vũ khí khổng lồ nên quân đội Sài-gòn có thể ném bom một cách hào

phóng, kiểu như các công tử tỉnh Bạc Liêu thời xa xưa ném tiền vào canh bạc. Nhờ cơ may đó, anh tìm gặp

được một tốp lính bị bom diệt trọn gói, và trở lại quân đội dưới tấm thẻ quân nhân : Thượng sĩ bộ binh Hoàng

An, dân tộc Tày, quê Đồng Mỏ, Lạng sơn.

Anh được sáp nhập vào đội quân gom góp từ tất cả những tiểu đoàn, đại đội, trung đội bị xoá sổ rồi sau

đó không lâu, lại sáp nhận vào một cánh quân khác. Trú ẩn dưới cái tên của một người đã chết, anh hiểu rằng

cuộc sống của anh giờ đây chỉ còn lại một mục tiêu. Ngày đó, anh thề trước đất trời :

Nông văn Thành đã chết vĩnh viễn.

Chí văn Thành cũng vĩnh viễn chết theo.

Chỉ còn lại trên cõi đời một kẻ tên là Hoàng An mà thôi.

***************

***************

***************

Au Zénith - Dương Thu Hương - 257

ไม่มีความคิดเห็น: