Từ khi thành lập, đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo ra nhiều huyền thoại về vai trò lãnh đạo của Bộ Chính Trị và khả năng của đảng viên để vận dụng sức mạnh dân tộc hầu phục vụ cho cộng sản quốc tế và duy trì độc quyền thống trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam thường rêu rao là nơi qui tụ tinh hoa dân tộc. Nhưng, đa số đảng viên cộng sản Việt Nam xuất thân từ nông dân, người nghèo ở thành thị và cặn bã xã hội (tức vô sản lưu manh) nên mang bản chất cơ hội, theo đuôi. Năm 1931, Đệ tam Quốc tế nhận xét “thành phần xã hội của đảng Cộng sản Việt Nam rất xấu nên sinh nhiều phần tử cơ hội”.
Vì thế, đảng đã chọn Đỗ Mười, xuất thân nghề hoạn lợn còn mắc bệnh thần kinh làm Tổng Bí thư và hiện nay vẫn đầy quyền uy trong vai trò cố vấn. Cố Trưởng ban tổ chức trung ương Lê Đức Thọ, hành nghề móc túi ở Hà Nội bị nhà đương cục bỏ tù, từng hét ra lửa cho tới lúc lìa trần. Cựu chủ tịch Nhà nước Lê Đức Anh, xuất thân cai phu đồn điền, từng bạo hành nhiều công nhân và có một đảng tịch mờ ám, tiếp tục tác oai tác quái ở cương vị cố vấn. Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn với trình độ tiểu học, được coi như lý thuyết gia “xây dựng chế độ làm chủ tập thể”, vốn sao lục từ “tư tưởng chủ thể -juche” của Kim Nhật Thành, lãnh tụ Bắc Triều Tiên.
Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có khả năng sao chép nguyên văn một cách giáo điều, thô thiễn, cuồng tín từ các mô hình của Liên Xô hoặc Trung Quốc tùy theo Bộ Chính trị nghiêng về phía nào. Tư duy của Tập đoàn Hà Nội bị khúc xạ qua Josef Stalin và Mao Trạch Đông nên tác hại bội phần so với nguồn gốc. Suốt 40 năm, kể từ 1951, tư tưởng Mao Trạch Đông được đưa vào Cương lĩnh làm kim chỉ nam chứng tỏ đảng Cộng sản Việt Nam chưa hề làm chủ bất cứ hệ tư tưởng nào.
Hồ Chí Minh và đồ đệ đã không thấu hiểu xu thế giải thực toàn cầu đã xuất hiện trên chính trường quốc tế và được áp dụng liên tục. Năm 1919 tại diễn đàn Hội Quốc Liên, Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đã đề xướng quyền Dân Tộc Tự Quyết để khuyến cáo các đế quốc Tây Phương từng bước trả lại sự tự trị và độc lập cho các thuộc địa Á Phi. Năm 1935, Hoa Kỳ trao quyền tự trị cho Phi Luật Tân. Năm 1936, Pháp cho Syria và Lybia tự trị. Việc trao trả độc lập bị tạm ngưng vì trận Đệ nhị Thế chiến.
Tại Châu Á, có 14 nước nằm trong tình trạng giám hộ, bảo hộ, thuộc địa của Thực dân da trắng thì 9 quốc gia đã được độc lập từ 1 đến 4 năm sau một thời gian chuẩn bị chuyển quyền trong hòa bình như Phi Luật Tân thuộc Hoa Kỳ, Syrie và Liban thuộc Pháp đã độc lập năm 1946; Ấn Độ và Đại Hồi (bao gồm Pakistan và Bangladesh ngày nay) thuộc Anh đã độc lập năm 1947; Miến Điện, Tích Lan thuộc Anh đã độc lập năm 1948; Nam Dương thuộc Hòa Lan đã độc lập năm 1949. Việt, Miên, Lào dưới cây gậy chỉ huy của đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thoát khỏi chiến tranh vào năm 1975.
Tập đoàn cộng sản Việt Nam vẫn miệt mài chém giết dưới chiêu bài giải phóng dân tộc nên bác bỏ Hiệp định Élysée năm 1949 được Quốc trưởng Bảo Đại và Tổng thống Pháp, Vincent Auriol ký kết công nhận chủ quyền toàn vẹn và thống nhất của Quốc gia Việt Nam. Nếu biết nương theo giải pháp này, hai bên Quốc-Cộng có nhiều triển vọng thảo luận với Pháp nhằm chấm dứt chiến cuộc nhanh và ít tốn xương máu hơn. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận viện trợ của Bắc Kinh lẫn Mạc Tư Khoa và sử dụng chuyên chính vô sản để huy động dân tộc làm lá chắn phía Nam khi Mao Trạch Đông chiếm toàn bộ Hoa Lục; xua quân sang Cambodia trên đường Nam tiến của Liên Xô mà không đủ trí tuệ phán đoán hoặc cố tình giả mù hầu thi hành chiến lược bành trướng của Cộng sản Quốc tế.
Trong tác phẩm “Trung Quốc và các cuộc chiến của Việt Nam, 1950-1975”, Qiang Zhai, giáo sư lịch sử thuộc Auburn University Montgomery cho rằng sau khi làm chủ toàn bộ Hoa Lục vào năm 1949, Mao Trạch Đông tìm cách bảo vệ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ ba hướng: Triều Tiên, Đài Loan và Đông Dương nên thúc đẩy Việt Minh mở các chiến dịch Biên Giới và Tây Bắc để vừa đẩy Pháp khỏi địa bàn biên giới Trung-Việt, đồng thời, truy quét tàn quân của Tưởng Giới Thạch.
Theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, đoàn cố vấn quân sự do Vị Quốc Thanh cầm đầu sang Việt Nam năm 1950 và đoàn cố vấn chính trị do Lã Quí Ba lãnh đạo đến Việt Nam năm 1951. Tướng Trần Canh trực tiếp chỉ huy chiến dịch Biên Giới năm 1950. Vị Quốc Thanh tiếp tục chỉ đạo cuộc chiến Đông Dương I cho tới khi kết thúc trận Điện Biên Phủ. Cố vấn Trung Quốc quyết định các chiến dịch Rèn cán chỉnh quân và Cải cách ruộng đất.
Hồi ký “Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử” của tướng Võ Nguyên Giáp chỉ mô tả vai trò thực hiện của Quân đội Nhân dân trong khi phần chỉ đạo chiến lược, chiến thuật do phía Trung Quốc quyết định.
Năm 1950, Võ Nguyên Giáp xác định điều kiện chín muồi nên mở cuộc tổng tiến công vùng đồng bằng sông Hồng với chiến thuật biển người, nhưng thảm bại tại Vĩnh Yên vào tháng 1, Mạo Khê tháng 3 và Phủ Lý tháng 5-1951.
Năm 1953, Võ Nguyên Giáp phải bỏ ý định tấn công đồng bằng sông Hồng một lần nữa để theo kế hoạch mở chiến dịch Tây Bắc của cố vấn Trung Quốc sau khi được Vi Quốc Thanh trao cho kế hoạch bình định của Henri Navarre, Tổng tư lệnh quân Pháp tại Đông Dương.
Tổng Bí thư Lê Duẩn ngã hẳn về Bắc Kinh bằng cách ký Hiệp định Phòng thủ Hỗ tương với Liên Xô và gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế năm 1978 để thực hiện cuộc Nam tiến của Đệ tam Quốc tế. Hà Nội xuất cảng mặt hàng “lao nô” sang Liên Xô và Đông Âu cho tới khi thành trì chủ nghĩa cộng sản bị sụp đổ.
Việt Nam đưa quân vào Cambodia nên bị Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc và Hoa Kỳ cùng các quốc gia Đông Nam Á, ASEAN yểm trợ tích cực cuộc kháng chiến của dân tộc Cao Miên gây thiệt hại nặng nề buộc Hà Nội phải rút quân sau 10 năm chiếm đóng. Chủ trương giải phóng bằng bạo lực cách mạng của đảng Cộng sản chẳng những cuốn dân tộc vào cơn lốc xung đột quốc tế thời Chiến Tranh Lạnh mà còn tạo ra cảnh nồi da nấu thịt tác hại vô lường đối với tiềm năng của Tổ Quốc.
Nơi nào Cộng sản đến, dân chúng bỏ đi ngoại trừ trường hợp thiếu điều kiện. Năm 1954, khoảng 2/20 triệu dân miền Bắc bỏ lũy tre làng, ba mươi sáu phố phường khi phân nửa nước tràn ngập màu cờ máu để xây dựng đời sống tự do tại miền Nam vĩ tuyến 17. Khi Việt Nam được “hoàn toàn giải phóng” thì gần 2/60 triệu người đánh đu với tử thần để thoát khỏi chế độ cộng sản. Làn sóng chạy trốn sự thống trị của cộng sản vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức khác nhau, kể cả bán thân cho ngoại nhân.
Đảng Cộng sản tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp để xóa bỏ chế độ người bóc lột người lại tạo ra một xã hội mà đa số bị trấn lột triệt để về tư duy, về tài sản, về tự do, về hạnh phúc. Chủ trương lấy bạo lực làm phương tiện đấu tranh duy nhất đã tạo nên môi trường hận thù tuyệt đối khiến cho mục đích công bằng, bình đẳng, hạnh phúc, văn minh trở thành những khẩu hiệu trống rỗng, khuôn sáo mà đến nay đảng Cộng sản vẫn chưa nhìn ra sự mâu thuẫn tất yếu đó.
Nhân danh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, đảng viên cộng sản thẳng tay hành hạ, giết hại nông dân, trí thức, tư sản, để đạt chỉ tiêu trong các chiến dịch xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực; nhóm trí thức thiên tả ở Huế bộc lộ tâm lý cuồng sát trong hành động trả thù điên cuồng trong dịp Tết Mậu Thân 1968.
Sau 30 năm hòa bình, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tài nguyên thiên nhiên tương đối dồi dào mà vẫn nằm trong danh sách các nước nghèo. Với ngần ấy thời gian, Đại Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba đã biến thành rồng, thành hổ.
Trưởng đại diện Quĩ Tiền tệ quốc tế, IMF tại Hà Nội, Il Houng Lee nhận định với báo Tuổi Trẻ 27-03-06 Việt Nam (với GDP 535 USD) có thể phải mất tới 197 năm để đuổi kịp mức của Tân Gia Ba (với GDP 24.740 USD) nếu hai nước cùng giữ mức tăng trưởng như hiện nay. Cũng thế, cần 25 năm Việt Nam mới đuổi kịp Thái Lan hiện thời. Trí tuệ của đảng Cộng sản vẫn chưa thừa nhận khả năng lãnh đạo yếu kém.
Hôm 02-04-06, Bộ Tài chính cho biết tổng số nợ nước ngoài khoảng 20 tỉ mỹ kim và trong giai đoạn 2006-10, Việt Nam phải trả nước ngoài 10-11 tỉ USD, tức là 2 tỉ mỗi năm tương đương với số viện trợ phát triển chính thức, ODA được giải ngân.
Năm 1979, Hà Nội bí mật cho Mạc Tư Khoa sử dụng hải cảng Cam Ranh không trả tiền cho tới năm 2004. Năm 2001, Tổng thống Cộng hòa Liên bang Nga, Vladimir Putin thị sát Cam Ranh và thấy không cần cho nhu cầu quân sự nên hoàn trả cho Việt Nam.
Năm 1958, Cộng sản Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông (còn gọi là Biển Nam Hải) tạo điều kiện hợp pháp cho Trung Quốc chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và một số vị trí trong quần đảo Trường Sa vào năm 1988.
Năm 1999 và năm 2000, Chính quyền Hà Nội đã ký Hiệp định phân định biên giới Việt-Trung và Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ một cách mờ ám có thể vì mục đích cắt đất cầu thân. Bắc Kinh có nhiều điều kiện pháp lý để hợp tác khai thác tài nguyên trên Biển Đông. Cuối năm 2005, Hà Nội bắn tiếng sẽ cho Bắc Kinh “thuê” hải cảng Cam Ranh, một lợi thế quan trọng nhất về quân sự và kinh tế trong vùng.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn lầm chủ nghĩa marx-lenin và tư tưởng mao trạch đông mà khi chủ nghĩa này bị phá sản trên bình diện toàn cầu cũng chưa nhận ra khuyết tật khiến người ta phải đặt nghi vấn về trí tuệ của Tập đoàn lãnh đạo Hà Nội.
Khiếm khuyết về tri thức, di truyền về bản chất cơ hội đã khiến cho đảng Cộng sản ngày càng bộc lộ thêm nhiều tật xấu như tàn ác, gian trá, tham lam vô độ. Bộ Đào tạo và Giáo dục khám phá 6.870 văn bằng giả trong số 1,2 triệu văn bằng bị kiểm tra vào năm 2002 đã biểu thị sự suy thoái nhân cách trong giới trí thức xã hội chủ nghĩa. Tình trạng bằng giả trong tầng lớp Tiến sĩ rất phổ biến tại Việt Nam. Báo Tiền Phong 24-08-05 viết “trong số 13.500 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học của Việt Nam chỉ có khoảng 500 người (3,7%) có sản phẩm được quốc tế ghi nhận”.
Trí tuệ trong đảng Cộng sản Việt Nam bị thui chột do sao chép cuồng tín. Sử dụng bạo lực tuyệt đối chỉ gây đổ vỡ và nuôi dưỡng hận thù. Dân Việt tự giải phóng khỏi ách cai trị thể xác của Thực dân Pháp lại bị đảng Cộng sản quàn lên chiếc vòng “nô lệ kép” cả tư tưởng lẫn thể xác. Cộng sản Việt Nam hô hào chống lại chủ nghĩa tư bản suốt hơn 40 năm lại chạy theo đuôi các chế độ tư bản tép riu. Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên xưng tinh thần yêu nước, thương dân, nhưng bán nước buôn dân một cách “vô tư”.
Công và tội của đảng Cộng sản Việt Nam đã được cựu Ủy viên trung ương Hoàng Tùng đúc kết “Công của Đảng, có chăng chỉ bằng một phần mười cái tội của Đảng mà thôi. Mà trong một phần mười cái gọi là công đó thì chủ yếu là nhờ dựa vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân”. Đại Dương
@Vietnamdaily
Thế này là thế nào…
Thời buổi thế này là thế nào hả giời
Làm xịt lốp xe – đinh rải đầy đường xá
Giữa phố đông người rạch mặt người
Khách tàu hoả tha hồ ăn đá
Thời buổi thế này là thế nào hả giời
Các cô gái ra đường mông phải độn các-tông
Sợ những mũi kim tiêm cắm phập
Kim bết si đa đâu phải vô trùng
Thời buổi thế này là thế nào hả giời
Đến cục cứt cũng là cứt rởm
Nông phu phải miết tay, phải ngửi kiểm tra
Người ta luyện đất sét giống cứt người ghê gớm
Thời buổi thế này là thế nào hả giời
Trò giữa lớp phang Thày, con nện Cha trước bàn thờ tổ
Thịt lợn quay bôi véc ni đỏ lự
Foóc-môn ngâm xác người pha bánh phở cho ngon
Thời buổi thế này là thế nào hả giời
Xương trâu bò thế xương liệt sĩ
Trâu bò lên ngôi “Tổ quốc ghi công”
Được toàn dân dâng hoa, quỳ bài bái lễ
Thời buổi thế này là thế nào hả giời
Vua xuất xứ từ một anh hoạn lợn
Diễn văn eng éc tiếng lợn kêu
Đất nước tàn tạ xót xa
Triều đình cắn xé thối tha
Vua vẫy tai nhởn nhơ, hếch mũi lên hơn hớn
Thời buổi thế này là thế nào hả giời
สมัครสมาชิก:
ส่งความคิดเห็น (Atom)
ไม่มีความคิดเห็น:
แสดงความคิดเห็น