วันศุกร์ที่ 30 มกราคม พ.ศ. 2552
No278: Đầu xuân nhìn lại
Đầu xuân, những lúc trà dư tửu hậu, người ta hay cùng nhau ôn lại những chuyện quá khứ, những chuyện mới qua. Lời chúc tân xuân hầu như luôn là những lời tốt đẹp, nhưng bên tách trà nghi ngút khói, trong cái lạnh giêng hai, đề tài có thể luân chuyển và việc nói tới những chuyện tệ hại của năm cũ cũng không phải là điều cấm kị. Vậy nhân dịp đầu xuân, tôi cũng muốn kề cà nói đôi chuyện năm qua như vài tia sáng le lói soi vào bóng tối mịt mờ của lịch sử.
Vài thực tế xót xa
Những ngày đầu năm dương lịch 2009, lễ hội hoa thật “hoành tráng” được khai mạc tại Hà Nội. Nhưng rồi “ngày vui ngắn chẳng tày gang”, khi vừa sau lễ khai mạc, Hà Nội ngàn năm văn hiến đã phải chua xót chứng kiến cảnh phá phách tan tành của thứ “văn hoá cướp giật”, “văn hoá huỷ diệt”. Người tức giận, kẻ ngậm ngùi và dàn đồng ca của trên 600 tờ báo cũng được dịp xướng lên đủ các cung bậc hỉ nộ.
Lễ hội hoa biến thành lễ hội “văn hoá chộp giật” cũng khiến người ta nhớ lại một vết thương chưa kịp lành miệng ở xứ sở văn hiến, đó là lễ hội hoa anh đào vào ngày 6-4-2008. Khi so sánh hai lễ hội hoa diễn ra ở cùng một thành phố, cách nhau chưa đầy một năm, người có chút đầu óc quan sát có thể thấy ngay rằng món “văn hoá huỷ diệt” ở lễ hội sau thực ra chỉ là phiên bản của nền “văn hoá cướp giật” của lễ hội trước.
Cả hai lễ hội hoa trên đều là dịp khiến không ít du khách và viên chức ngoại quốc phải ngạc nhiên về “văn hoá ứng xử” của “một bộ phận dân cư” Hà Nội. Bộ mặt nhem nhuốc của thủ đô vì thế cũng hiện lên rõ nét hơn. Dù sinh sống và làm việc ở đâu, người Việt Nam còn chút liêm sỉ không khỏi cảm thấy tủi nhục vì lối sống chụp giật quá lộ liễu và mọi rợ của đồng bào mình ngay tại chốn kinh kì thanh lịch.
Truy tìm căn cớ
Hiện tượng đã khá rõ ràng, dĩ nhiên người ta sẽ phải tìm cách điều tra nguồn cội. Hàng loạt lí do được đưa ra. Nào là vì dân nhập cư vào Hà Nội ngày càng đông, nào là tại cả một tỉnh Hà Tây mênh mông núi đồi thôn quê và đồng ruộng bỗng chốc một sớm một chiều biến thành một phần máu thịt của thủ đô Hà Nội, nào là vì nền giáo dục quá nặng về trí dục mà nhẹ về đức dục.
Dĩ nhiên, cũng như bất cứ khi nào xảy ra chuyện này chuyện nọ, vài nhân vật có chút tên tuổi liền được lôi ra để ban vài lời vàng ngọc.
Nhà văn Băng Sơn nhận xét một cách rất chừng mực rằng: “Tôi cảm thấy buồn và xấu hổ. Người Hà Nội làm xấu Hà Nội đi. Bao nhiêu năm hội hoa ở Đà Lạt, ở TP HCM mà không phải làm hàng rào vẫn giữ được cho đến ngày cuối cùng.” Ông đã xem điều xót xa này là nỗi “xấu hổ” của người Hà Nội.
Ông nghị Dương Trung Quốc lại giải thích rằng: “Đứng trên phương diện văn hoá học, tôi cho rằng những hành vi tiêu cực này xuất phát từ một nhu cầu có tính tập quán của người Việt Nam, đầu năm phải có được cái gì đó gọi là có lộc.”
Giáo sư Trần Ngọc Thêm, tiến sĩ toán học ham viết về văn hoá, lại đổ vấy một cách rất vô trách nhiệm: “Xét về mặt văn hóa, những hành động này phát xuất từ văn hóa nông thôn, văn hóa làng xã mà ra.” Đọc lối giải thích vòng vèo của ông sau đó, tôi tin rằng đa số độc giả khó có thể hiểu được thực ra ông ta muốn nói gì.
Những lối kiến giải có vẻ rất “uyên thâm”, rất “khoa học” của những vị tai to mặt lớn, khiến đại đa số độc giả của các tờ báo chính thức sẽ hồ hởi phấn khởi nhận xét rằng: nói đúng quá, nói giỏi quá, để rồi thực tế phũ phàng sẽ không còn lại bao nhiêu dư âm trong lòng họ.
Vì đâu nên nỗi
Theo tôi, những lí do được được kể ra chỉ là bề nổi, hay nói cách khác chỉ là những mẩu sự thật. Thực ra cũng chẳng cần phải học hành hay suy nghĩ nhiều lắm để phán ra những điều như thế. Một anh xe ôm hay một chị hàng rong cũng có thể nói ra những nguyên nhân đại loại như thế khi bất chợt gặp nhau nói chuyện bâng quơ ở một quán nước ven đường.
Manh mối sâu xa của hiện tượng “văn hoá cướp giật” này hẳn phải nằm đâu đó nơi những góc khuất khúc của lịch sử đất nước.
Một thời nào đó, những khẩu hiệu nhuốm mầu giết tróc đã được trưng ra, giữa bầu khí khủng bố, tạo ra nỗi sợ hãi bao trùm và trấn áp toàn xã hội: “trí phú địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ”. Hàng ngàn con người đã bị qui cho cái tội rất mơ hồ là “bóc lột” hay “có nợ máu với nhân dân” và bị giết chết một cách dã man thê thảm, tài sản của họ bị tước đoạt chia chác. Xét cho cùng thì tội của họ một đàng là vì họ sở hữu những tài sản vật chất và phi vật chất, trong khi người ta đang muốn xây dựng một xã hội vô sản; đàng khác, những người vừa cướp được chính quyền muốn cào bằng tất cả để xây dựng một cơ cấu xã hội hoàn toàn mới với những “con người mới XHCN”. Đó là chuyện đã xảy ra ở miền Bắc từ hơn nửa thế kỉ trước.
Ở miền Nam cách nay vài chục năm, sau khi giành được quyền lực nhờ cấu kết với ngoại bang và nướng sống vài triệu thanh niên, người ta cũng đã dùng bầu không khí sợ hãi, cũng bằng vở tuồng chụp mũ ngày nào, tội “bóc lột” hay “có nợ máu với nhân dân”, hàng triệu người lại tiếp tục bị đày ải tù tội, rất nhiều tài sản của họ dĩ nhiên lọt vào tay “nhân dân” để rồi bị sang tay tráo đổi.
Người từng đọc lịch sử hẳn đều biết rằng chính quyền Việt Nam đôi lúc cũng đã hé mắt nhìn để rồi “sửa sai” hay “đổi mới”. Tuy nhiên họ luôn cho rằng những điều họ đã làm là hoàn toàn đúng, là “qui luật tất yếu của lịch sử”, những sai sót chỉ thuộc về những tiểu tiết trong khi thi hành, còn đường lối là luôn luôn đúng đắn. Về căn bản, họ không bao giờ chấp nhận đó là những sai lầm khủng khiếp đã khiến bánh xe lịch sử Việt Nam quay chậm đi hàng thế kỉ với một quốc gia tan hoang hỗn loạn.
Khi con người trong xã hội bị kết tội chỉ vì họ giầu có, về của cải hoặc về tri thức, hay chỉ vì họ mang chính kiến khác biệt, cũng có nghĩa những quyền căn bản nhất của con người như quyền tư hữu và quyền lên tiếng đã bị chà đạp. Một xã hội không bao giờ có thể phát triển lành mạnh khi mỗi cá nhân luôn nơm nớp lo sợ rằng tất cả những gì mình gắng công vun đắp kiến tạo hôm nay sẽ bị cướp giật tước đoạt hay lọt vào tay kẻ khác vào một ngày đẹp trời, chẳng cần qua bất cứ một trình tự pháp lí minh bạch nào, mà chỉ do những phát động sặc mùi vu khống chụp mũ bao trùm bằng nỗi sợ hãi.
Nói một cách ngắn gọn và dễ hiểu, điều thê thảm cùng cực đối với số mạng từng con dân và vận mệnh cả dân tộc Việt Nam trong thế kỉ qua đó là TÀI SẢN CÁ NHÂN CHƯA HỀ ĐƯỢC TÔN TRỌNG. Hơn thế nữa, người ta đã mải miết xoá bỏ tất cả những điều xưa cũ để xây dựng một cơ cấu xã hội mới. Sau nửa thế kỉ hồ hởi phấn khởi xây thiên đường mù, người ta mới chợt ngã ngửa nhận ra rằng cái thiên đường ấy chưa hề được định hình cụ thể ra sao. Rút cuộc, người Việt Nam chúng ta hầu như đã đánh mất tất cả những truyền thống tốt đẹp xa xưa, trong khi cơ cấu mới thực sự là một mớ hỗn độn không ra quân chủ, chẳng ra tư bản, lại thêm một cái đuôi lòng thòng là “định hướng XHCN” được vận hành theo lối mafia với những tên công bộc tham lam nhũng nhiễu.
Vậy nên, chuyện bẻ hoa, cướp hoa, dẫm đạp lên hoa mà chúng ta từng chứng kiến là gì nếu không phải là cách hành xử theo nguyên tắc CỦA MÀY LÀ CỦA TAO? Đáng lẽ đảng và chính phủ phải tuyên dương những con người đó, vì họ chính là những “con người mới XHCN”, đã “thấm nhuần đạo đức cách mạng”.
Chữa bệnh dĩ nhiên phải chữa tận căn, trong khi trên thực tế hiện nay, người ta chỉ quan sát hiện tượng để rồi chữa trị các căn bệnh trong xã hội theo kiểu vặt ngọn hay bịt ngọn. Điều đó chỉ khiến cho các mối liên hệ xã hội ngày càng trở nên bùng nhùng phức tạp, vô phương giải quyết. Văn kiện mới nhất mà ông thủ tướng ban hành vẫn chỉ là một lời tái khẳng định nguyên tắc của “đạo đức cách mạng” rằng CỦA MÀY LÀ CỦA TAO, những gì chúng tao đã lấy của chúng mày, chúng mày không được đòi lại, chúng mày không có cơ sở đòi lại.
Dù sao, tôi nhận thấy đảng và chính phủ đã thực sự đổi mới, bởi vì tôi chợt nghĩ nếu dùng món võ của Mộ Dung Phục ngày nào, “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân”, nói một cách nôm na là gậy ông lại đập lưng ông, để áp dụng vào thời buổi hiện tại, “trí phú địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ”, theo chính những tiêu chí người ta đã đưa ra ngày nào, tôi tin rằng đa số thành phần bị xếp vào hàng “bóc lột” hay “có nợ máu với nhân dân” hiện nay chính là những đảng viên cộng sản.
Hoàng Cúc
สมัครสมาชิก:
ส่งความคิดเห็น (Atom)
ไม่มีความคิดเห็น:
แสดงความคิดเห็น